THẠCH ĐÀ - Mê Linh quê hương yêu dấu

SIÊU THỊ SƠN MÊ LINH Xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả các bài viết trong tác phẩm rất hay về tình yêu quê hương: THẠCH ĐÀ - Quê hương yêu dấu! 



LỜI GIỚI THIỆU

                “Thạch Đà quê hương yêu dấu” là một cuốn sách hay, được viết bởi chính những người con của Thạch Đà xa quê. Đọc “Thạch Đà quê hương yêu dấu”, chúng ta sẽ được trở về với miền quê Thạch Đà giàu bản sắc văn hóa và truyền thống cách mạng trong dòng chảy chung của dân tộc, thấy được con người Thạch Đà hiền hòa, bình dị trong cuộc sống hàng ngày, nhưng cũng rất dũng cảm trong chiến đấu, năng động sáng tạo trong tiến trình hội nhập và phát triển đất nước. Để rồi, trong mỗi chúng ta ngày càng cảm thấy yêu quý và tự hào hơn về miền quê Thạch Đà yêu dấu.

              Với những tư liệu sinh động, phong phú và cách kể chuyện tự nhiên, với những ngôn từ giản dị, gần gũi, tôi tin tưởng rằng, cuốn sách sẽ là người bạn đồng hành thân thiết trong hành trang của mỗi người, gắn kết tình cảm và nâng bước cho những người con Thạch Đà xa quê tiếp tục đoàn kết, sáng tạo, vượt qua khó khăn, vươn lên giành những đỉnh cao mới trong công việc và cuộc sống; chung tay góp sức xây dựng quê hương Thạch Đà giàu mạnh. Đồng thời, đây cũng là món quà tinh thần nhỏ bé của những người con xa quê gửi về quê hương Thạch Đà yêu dấu.


            Xin được chân thành cám ơn thầy Nguyễn Văn Can, thầy Phùng Ngọc Liên và những người con của quê hương Thạch Đà đã dày công biên soạn và tham gia hoàn chỉnh cuốn sách mang nhiều ý nghĩa này.

Hà nội, ngày 22 tháng 12 năm 2012

ỦY VIÊN BỘ CHÍNH TRỊ BỘ TRƯỞNG BỘ QUỐC PHÒNG- 
ĐẠI TƯỚNG PHÙNG QUANG THANH
( Đã ký)







THẠCH ĐÀ – VÙNG ĐẤT CỔ GIÀU TRUYỀN THỐNG


              Thạch Đà thuộc vùng đất phù sa cổ nằm ở phía tả ngạn sông Hồng, có bề dày lịch sử cả về mặt kiến tạo địa chất lẫn văn hóa, một trong những chiếc nôi của nền văn minh lúa nước Việt cổ. Những gò, đống, dộc, vực… như gò Rậm, gò Bầu, gò Đống, dốc Táo, vực Nắn… còn tồn tại cho đến ngày nay là một minh chứng đầy sức thuyết phục.

I. ĐẶC ĐIỂM VỀ TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI

1. Vị trí, giới hạn, diện tích, dân số:

a. Vị trí, giới hạn: Thạch Đà hiện nay là một trong 17 xã của huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.

Phía Bắc giáp xã Tam ĐồngĐại Thịnh;

Phía Nam giáp sông Hồng và giáp xã Hồng Hà huyện Đan Phượng

Phía Đông giáp xã Văn Khê và xã Hoàng Kim;

Phía Tây giáp xã Liên MạcChu Phan

b. Diện tích:

Diện tích đất tự nhiên của xã hiện nay là 808,1 ha, trong đó đất nông nghiệp là 500,93ha; đất phi nông nghiệp là 248,27 ha; đất chưa sử dụng là 58,9 ha.

c. Dân số:

Dân số Thạch Đà hiện nay có 12.920 người, trong đó người trong độ tuổi lao động là 7.225 người, chiếm 52,92% dân số; số người lao động qua đào tạo ( chủ yếu là ngắn ngày) là 2.520 người, chiếm 34,88% tổng số người lao động.

2. Địa hình, khí hậu:

a. Địa hình:

Xã Thạch Đà nằm ở phía Bắc đồng bằng song Hồng, có địa hình tự nhiên bằng phẳng thấp dần về phía Đông Bắc.

b. Khí hậu:

Xã Thạch Đà thuộc tiểu vùng khí hậu đồng bằng và trung du Bắc Bộ, có khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 2 mùa rõ rệt trong năm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4, chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, thời tiết lạnh và khô hanh. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, chịu ảnh hưởng của gió Đông Nam, thời tiết nóng và ẩm.

3. Sự thay đổi về địa giới hành chính qua các thời kỳ:

Thời xa xưa Thạch Đà có tên Nôm là Kẻ Đợ ( Kẻ, theo từ điển Tiếng Việt là từ dung để chỉ những địa phương, khu dân cư có chợ búa), sau đổi thành Hoa Đà rồi Kim Đà. Đến cuối thế kỷ XIX đổi thành Thạch Đà như ngày nay.

Giống như nhiều làng, xã Việt Nam khác, Thạch Đà qua các thời kỳ lịch sử cũng có sự thay đổi về địa lý hành chính.

Những mốc thay đổi cơ bản là:

Thời Vua Hùng dựng nước Thạch Đà là vùng đất thuộc huyện Chu Diên, Bộ Văn Lang;

Thời Lý – Trần Thạch Đà thuộc huyện Yên Lãng, châu Tam Đái, lộ Đông Đô;

Thời Lê thuộc phủ Tam Đái, trấn Sơn Tây;

Thời Nguyễn ( từ năm Minh Mạng thứ 31) Thạch Đà thuộc phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây;

Từ năm 1899 ( thời thuộc Pháp), Thạch Đà thuộc hiện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Yên;

Năm 1903, tỉnh Phúc Yên được thành lập, Thạch Đà thuộc tỉnh Phúc Yên

Từ sau năm 1950, Thạch Đà thuộc huyện Yên Lãng, tỉnh Vĩnh Phúc;

Từ năm 1968 đến năm 1979 thuộc huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phú;

Từ năm 1979 đến năm 1991, Thạch Đà thuộc huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội;

Từ năm 1991 đến năm 1997, thuộc huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc.

Từ ngày mồng 1 tháng 8 năm 2008 Thạch Đà ( Mê Linh) lại sáp nhập về thành phố Hà Nội cho đến ngày nay.

Không phải chỉ có thay đổi về địa lý hành chính cấp phủ, huyện, tỉnh mà Thạch Đà còn có thay đổi về cả cấp xã. Xin nêu một số những thay đổi đó:

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 bỏ đơn vị hành chính cấp tổng Thạch Đà được đổi tên là xã Cộng Hòa.

Năm 1949, do yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, Thạch Đà hợp nhất với Tam Đồng thành xã Thống Nhất. Trụ sở vẫn đặt ở Thạch Đà.

Đầu năm 1955 xã Thống Nhất lại tách làm 2 xã là Tam Đồng và Thạch Đà. Quy mô xã và tên gọi Thạch Đà tồn tại từ đó cho đến ngày nay.

Cho dù đã có những thay đổi về địa lý hành chính qua các thời kỳ khác nhau song về cơ bản, Thạch Đà trước sau vẫn là đơn vị truyền thống nhất thôn, nhất xã, vẫn cố kết bền vững trong một thế thống nhất, gắn bó keo sơn.


II. SƠ LƯỢC VỀ TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, VĂN HÓA XÃ HỘI QUA CÁC THỜI KỲ

1. Trước Cách mạng Tháng Tám 1945:

                Nhìn chung, trước Cách mạng Tháng Tám, Thạch Đà chủ yếu là vùng đất thuần nông. Tuy có chợ từ rất sớm và là chợ của cả vùng ( chợ Đợ) nhưng cũng chỉ là nơi trao đổi, mua bán nhỏ lẻ. Chợ họp theo phiên vào các ngày hai, bốn, bảy, tám, mười … âm lịch. Những người làm nghề buôn bán thì chủ yếu vẫn là bán nông, bán thương.

               Do điều kiện thuận lợi về giao thông, ngoài đường bộ ( đường đất) tỏa đi các xã trong vùng, cũng như đi các huyện trong tỉnh, Thạch Đà còn nằm ngay cạnh song Hồng, có bến bãi nên giao thương rất thuận lợi. Các thuyền bè chở lâm thổ sản từ vùng ngược xuôi về đất kinh kỳ và hang hóa từ đất kinh kỳ lên miền ngược đều qua bến song này. Theo các cụ kể lại, cho đến những năm đầu thế kỷ XX, bến đò Đợ, thuyền bè xuôi ngược vẫn đỗ san sát, các thương lái ra vào buôn bán, trao đổi tấp nập đông vui. Đến khi sông Hồng chuyển dòng ( khoảng những năm 40 của thế kỷ trước), bãi nổi bồi lấp, bến đò Đợ mới thôi hoạt động.

               Nhờ vị trí thuận lợi, lại sẵn tính năng động, người Thạch Đà dần bắt nhịp được với hoạt động của thương trường. Nghề trồng thầu dầu và ép dầu ra đời. Phần lớn người làm nghề ép dầu đều ở tích Đông. Tích Tây chỉ có gia đình ông Phó Đăng. Dầu ép được đóng vào thùng gỗ chở ra bến đò, đưa xuống thuyền xuôi về bán ở Hà Nội. Ngoài nghề ép dầu, buôn bè, Thạch Đà có nghề thợ mộc, thợ nề, thợ may, nuôi tằm v.v… Thợ mộc, thợ nề đi làm ăn xa phần lớn ở các tỉnh miền núi phía bắc có khi đến tết mới về. Việc làm ruộng giao cả cho phụ nữ.

                Tóm lại, trước Cách mạng Tháng Tám, tuy là “ nhất xã, nhất thôn”, song xưa Thạch Đà cũng có 4 đơn vị hành chính nhở gọi là tích: Tích Đông là khu vực quanh nhà thờ ra đến rệ đồng. Tích Tiên là khu vực quanh đình ra đến gần song máng. Tích Thị là khu chợ ra đến đê song Hồng. Tích Chung ở ngoài đê giáp với Nại Châu và Tây Xá. Mỗi Tích có một trương tuần và một điếm canh cho tuần phiên canh gác ngủ, nghỉ. Tích tồn tại cho đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Sau CCRĐ thành lập thôn. Thạch Đà có 4 thôn là: thôn Một, thôn Hai, thôn Ba, thôn Bốn.

                  Thạch Đà là nơi cư trú, quần tụ của nhiều dòng họ như họ Phùng ( Đình, Viết, Minh, Quang), họ Nguyễn ( Văn, Khắc, Hữu, Viết, Đình, Kiến, Duy) và các họ Phan, Lê, Lưu, Đỗ, Đào, Hà…

                   Do là phủ ly nên Thạch Đà đã có phố trong làng, dân gọi là phố Phủ.

                   Về sự học: Thời học chữ Nho, tuy chưa có ai là cụ tú, cụ cử song làng đã có nhiều thầy đồ dạy học. Đến khi bỏ chữ nho dạy chữ Quốc Ngữ, Thạch Đà là nơi đầu tiên có trường Kiêm Bị, tương đương với trường tiểu học bây giờ nhưng học sinh phải học 6 năm. Ba năm đầu ( lớp Năm, Tư, Ba), hết lớp Ba có một kỳ thi. Ai đỗ được cấp bằng Sơ học yếu lược. Ba năm sau ( lớp Nhì năm thứ nhất, lớp Nhì năm thứ hai, cuối cùng là lớp Nhất).

                 Học hết lớp Nhất có một kỳ thi hết cấp. Ai đỗ được cấp bằng Séc-ti-phi-ca (Certifica). Hệ thống cấp học này tồn tại cho đến năm 1955, sau hòa bình lập lại kết thúc.

               Ngày đó việc học cũng không dễ dàng gì, chỉ có con em những gia đình tương đối khá giả mới được cắp sách đến trường. Ai có được cái bằng Sơ học yếu lược đã là quý lắm.

              Về tín ngưỡng, tôn giáo:

              Cũng giống như mọi cư dân Việt, tục thờ cúng tổ tiên hết sức được coi trọng. Trong nhà, nơi trang trọng nhất được đặt bàn thờ gia tiên. Ngày sóc, ngày vọng, và các ngày giỗ chạp, tết nhất, giàu nghèo gì cũng có nén hương, nải quả cúng giỗ cầu mong tổ tiên phù hộ cho con cháu được bình an.

               Nhân dân Thạch Đà phần lớn theo đạo Phật. Sauk hi Pháp xâm lược đặt ách đô hộ, có thêm một số người theo đạo Thiên Chúa. Vậy là bên cạnh chùa thờ Phật còn có nhà thờ thờ chúa Giê xu (Je’sus Christ). Bên cạnh tiếng chuông chùa còn có tiếng chuông nhà thờ. Tuy là theo hai đạo khác nhau nhưng người dân vẫn giữ được tình làng, nghĩa xóm, cả hai đều có chung một tâm niệm là phải sống sao cho tốt đời, đẹp đạo.

                Xin giới thiệu một số công trình tâm linh của làng:

                ĐÌNH: Đình Thạch Đà nằm ở thôn Một, tọa lạc trên một vị trí cao ráo, đẹp đẽ sát với đường lien huyện. Trước đình có hồ bán nguyệt thả sen, súng hoa nở bốn mùa, đậm màu dân dã.

                Đình thờ Thành hoàng là tướng quân Chu Đài, người có công lớn chống giặc Ngô thế kỷ thứ III. Hiện trong đình còn đôi câu đối ca ngợi uy lực, danh tiếng, công đức của ông bằng chữ Hán. Tạm dịch là:

                Văn võ toàn tài từng trấn giữ phương Nam, phương Bắc

                Uy lực danh tiếng từ xưa đến nay như đá vàng.

               Ngày giỗ Thành hoàng là ngày mồng Mười tháng Tám Âm lịch. Ngày giỗ cũng là ngày hội làng – ngày đông vui nhất của cả làng trong năm. Dân làng tổ chức tế lễ rất long trọng để tưởng nhớ công lao của bậc tiên liệt đã anh dũng hu sinh vì dân, vì nước và cầu cho quốc thái, dân an. Ai đi xa, và gần đến ngày này cũng cố sắp xếp về dự lễ, thắp nén hương tưởng nhớ công đức của Người và cầu cho gia đình được bình an, thịnh vượng.

              Hội làng xưa có nhiều trò chơi dân gian nhưng đông vui nhất, hấp dẫn nhất là Hội cướp bông. Cây bông làm bằng tre. Người làm cây bông phải là nam giới, tuổi từ 60 trở lên, được lựa chọn cẩn thận, có phẩm chất trong sáng, trai gái đề huề, gia đình mẫu mực, hạnh phúc. Tre làm cây bông cũng được lựa chọn kỹ càng; phải là tre bánh tẻ, tròn đều, mỡ màng, ‘ thịt” trắng. Càng trắng càng quý vì nó là biểu tượng cho sự trinh trắng. Sau khi bóc lớp vỏ xanh bên ngoài sẽ lộ ra lớp “ thịt” trắng ngần, thanh khiết. Người vót bông khéo léo lột sợi bông cuốn thành 5 nụ bông trông rất đẹp. Cây bông sau khi hoàn thành được 5 đôi nam thanh nữ tú, chưa vợ, chưa chồng rước vào trong đình. Tế lẽ xong, đến phần hội thì rước cây bông ra trước ao đình. Trai tráng các tích đóng khố, cởi trần , tổ chức thành đội mỗi đội 10 người đứng xếp hàng trên bờ. Khi coa hiệu lệnh, cây bông được ném xuống ao đình. Trai tráng của các đội lao xuống cướp. Đội nào cướp được mang về tích mình là giành chiến thắng. Trò chơi cướp bông được đông đảo người xem tán thưởng, reo hò, động viên rất vui. Tiếc rằng trò chơi dân gian mang đậm tính phồn thực này hiện nay không còn nữa. Thật tiếc lắm thay!

               Đình Thạch Đà qua thời gian, mưa nắng bị hư hỏng nhiều do vậy năm 2009, chính quyền và nhân dân đã phát tâm công đức, tu bổ lại nhiều hạng mục làm cho ngôi đình càng trở nên khang khang, đẹp đẽ hơn.

                Ngày 9 tháng 10 năm 2010, sau khi hoàn thành công việc tu bổ, UBND xã đã long trọng tổ chức gắn biển công trình chào mừng Đại lễ hội 1000 năm Thăm Long – Hà Nội. Đây là một việc làm hết sức có ý nghĩa nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thể hiện tấm lòng tri ân, uống nước nhớ nguồn đối với các bậc tiên liệt để con cháu muôn đời noi theo.

                ĐỀN: Trong các công trình tâm linh của Thạch Đà thì Đền Thạch Đà có một vị trí hết sức quan trọng đối với dân làng. Theo truyền thuyết thì Đền Thạch Đà có từ thời đầu công nguyên, thờ 3 vị nữ thần dòng dõi Hùng Vương giúp hai Bà Trưng đánh giặc Tô Định là Ả Nương, Lã Nương và Mỵ Nương do vậy còn gọi là Đền Bà. Đền lúc đầu làm bằng gỗ lợp lá gồi nằm ở cạnh triền đê sông Hồng sau được dân làng tôn tạo, xây dựng kiên cố. Đến thế kỷ XIX đền được mở rộng, xây dựng bề thế, có kiến trúc đẹp.

                 Đền Thạch Đà cũng có những thăng trầm cùng lịch sử dân tộc. Trong thời thuộc Pháp, cùng với thời gian, nắng mưa, lụt lội và chiến tranh ngôi đền đã bị phá hủy hoàn toàn. Tuy vậy dân làng vẫn cất giữ được một số đồ thờ quý giá. Sau hòa bình, nhân dân Thạch Đà góp công, góp tiền xây dựng lại đền bằng gỗ khá khang trang nhưng đến năm 1978 lại bị dỡ đi vì cho rằng đình miếu, đền chùa là mê tín dị đoan. Đến năm 1990 đền được xây dựng lại nhưng không còn gữ được dáng dấp cổ kính như xưa.

                Hiện nay ngôi đền đang được Công ty Cổ phần Him Lam phát tâm công đức xây dựng mới hoàn toàn trên nền đền cũ với tổng diện tích trên 5.000m2, xứng tầm với công đức của 3 vị liệt nữ từ thời khai quốc. Việc xây dựng lại ngôi đền to đẹp, khang trang để làm nơi hương khói thờ phụng 3 vị tiền bối phù hợp với tâm nguyện của nhân dân, thỏa mãn nhu cầu tâm linh, hướng tới điều thiện; là nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, có sức gắn kết nhân tâm, tình làng nghĩa xóm, có tác dụng giáo dục thế hệ trẻ hướng về quê hương, nguồn cội.

               Một điểm nhấn của ngôi đền xưa là ở đầu phía Tây, sát triền đê có hai cây gạo có tuổi đời đến bốn, năm trăm năm. Hai cây gạo cổ thụ như là một biểu tượng của Thạch Đà, đã bao đời như hai ngọn “ hải đăng” dẫn đường cho những người con xa xứ trở về với quê hương. Hai cây gạo cổ thụ ấy bây giờ không còn nữa nhưng dân làng thì vẫn không bao giờ quên. Giờ đây cùng với việc xây dựng lại ngôi đền, hai cây gạo mới cũng đã được trồng ở vị trí cũ đang xanh tốt, đầy sức sống vươn lên trời cao để rồi sẽ lại như hai cây gạo năm xưa trở thành hai ngọn ‘ hải đăng” dẫn đường cho những người đi xa trở về thăm quê cha, đất tổ, trở về chốn linh thiêng của một vùng quê giàu truyền thống.

             CHÙA: Chùa Quang Lộc, còn gọi là chùa Cả, tọa lạc trên một khu đất cao ráo thuộc địa phận thôn Một, phía sau là cách đồng ruộng mênh mông, cảnh quan thoáng đãng và rất đẹp.

             Theo truyền thuyết thì chùa được xây dựng từ thế kỷ XV, thời Lê Sơ, có kiến trúc to đẹp, lộng lẫy nhất vùng.

              Cũng như các di tích văn hóa, tâm linh khác của làng, chùa Cả cũng trải qua những biến cố thăng trầm cùng lịch sử. Năm 1947 thực hiện lời kêu gọi “ Tiêu thổ kháng chiến”, nhân dân đã tự nguyện tháo dỡ ngôi chùa để xây dựng lũy hào chiến đấu bảo vệ làng quê. Sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, tại khuôn viên cũ của ngôi chùa, chính quyền mới cho xây dựng nghĩa trang làm nơi yên nghỉ của các liệt sĩ thời chống Pháp. Năm 1992, nghĩa trang liệt sĩ được chuyển đến nơi khác. Khuôn viên của chùa lại bỏ không. Di vật còn lại chỉ có quả chuông đồng đường kính 80cm, cao 150cm, nặng khoảng 300kg và những phiến đá xanh, kệ kê chân cột chùa cũ, kích thước 80cm x 30cm là vẫn “ trơ gan cùng thuế nguyệt”.

               Năm 2007, thể theo nguyện vọng chính đáng của dân làng, UBND xã đã xin phép các cấp có thẩm quyền phục dựng lại ngôi chùa trên nền chùa cũ. Đến nay, chùa Quang Lộc đã cơ bản hoàn thành trên khuôn viên rộng khoảng hơn 3300m2. Vào các ngày sóc, ngày vọng hay vào các dịp lễ tết dân làng cũng như bà con các vùng phụ cận về đây nghe giảng giáo lý nhà Phật để lòng được thanh thản, bỏ điều ác, làm điều thiện, tu nhân tích đức, bỏ Tham- Sân –Si, mở rộng tấm lòng Từ - Bi – Hỉ - Xả hướng tới cái Chân – Thiện – Mỹ để phúc lộc cho con cháu muôn đời.

              Thạch Đà, ngoài chùa Quang Lộc còn có chùa Linh Cảnh tức chùa Bụt Mọc ở thôn Hai. Chùa nằm khiêm nhường, kín đáo ẩn dưới tán cây cổ thụ. Cảnh chùa yên tĩnh, thanh tịnh rất thích hợp cho những phật tử muốn đến chốn cửa thiền để tụng kinh, niệm phật giải thoát khỏi những căng thẳng, mệt mỏi sau những ngày vật lộn với cuộc mưu sinh.


               NGHĨA TRANG LIỆT SĨ: Bên cạnh các công trình tâm linh thờ các bậc tiên liệt, Đảng ủy và nhân dân Thạch Đà đã xây dựng Nghĩa trang liệt sĩ làm nơi yên nghỉ của những người con của Thạch Đà đã anh dũng hi sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nghĩa trang liệt sĩ được xây dựng ở một vị trí đẹp nằm trên trục lộ Thạch Đà đi Phúc Yên rất thuận tiện cho việc chăm nom, thăm viếng. Nghĩa trang được chính quyền, đoàn thanh niên và học sinh các trường chăm sóc, giữ gìn chu đáo, sạch đẹp. Đây cũng là nơi giáo dục lòng yêu nước, giáo dục đạo lý uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa cho các thế hệ trẻ Thạch Đà trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2. Trong kháng chiến chống Pháp

a. A. Những ngày cách mạng Tháng Tám sục sôi giành chính quyền:

                 Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương và lãnh tụ Hồ Chí Minh lệnh Tổng khởi nghĩa được ban bố. Người kêu gọi: “ Giờ quyết định cho vận mệnh của dân tộc ta đã đến. Toàn thể đồng bào ta hãy đứng dậy đem sức ta ra mà giải phóng cho ta:. Nghe theo lời kêu gọi thiêng liêng ấy hơn 20 triệu nhân dân cả nước nhất tề đứng lên tiến hành Tổng khởi nghĩa.

                Chớp thời cơ, đồng bào Hà Nội và các địa phương trong cả nước nối tiếp nhau vùng lên giành chính quyền: 19.8 ở Hà Nội; 23.8 ở Huế; 25.8 ở Sài Gòn. Như vậy, chỉ trong 15 ngày, kể từ ngày 14 ( Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng Sản Đông Dương họp ở Tân Trào Tuyên Quan phát động Tổng khởi nghĩa) đến ngày 28 tháng 8, cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công trong cả nước.

                Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới rằng nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, một kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc đã mở ra – kỷ nguyên độc lập và tự do.

                 Bốn tháng sau ngày tuyên bố độc lập, ngày 6-1-1946 lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, hơn 90% cử tri cả nước nô nức đi bầu những đại biểu chân chính của mình vào cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước: Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

                 Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền và nhân dân cả nước bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng chế độ mới. Công việc đầu tiên là tập trung diệt giặc đói, giặc dốt và giải quyết những khó khăn về tài chính đồng thời chuẩn bị chống giặc ngoại xâm.

                 Hòa vào không khí chung của cuộc cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân Thạch Đà cùng một số xã bạn đã vùng lên cướp chính quyền ở phủ lỵ. Tri phủ Phạm Trung Ngân bỏ trốn. Chính quyền địch bị đập tan. Ủy ban lâm thời xã được thành lập. Vậy là từ nay nhân dân Thạch Đà cũng như nhân dân cả nước đã thoát khỏi thân phận nô lệ, một cổ đôi tròng, đứng lên làm chủ vận mệnh của mình.

              b. Củng cố chính quyền cùng cả nước đứng lên tiến hành cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta.

             Ngày 6 tháng Giêng 1946 nhân dân Thạch Đà cùng nhân dân cả nước đi bỏ phiếu bầu cử Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

             Tháng 5 năm 1946, nhân dân Thạch Đà bầu Hội đồng nhân dân cấp xã, Hội đồng nhân dân xã Cộng Hòa (Thạch Đà) bầu ra Ủy ban hành chính để điều hành công việc của nền dân chủ mới.

             Tháng 9 năm 1947 Chi bộ ghép của 2 xã Liên Mạc, Cộng Hòa ( Thạch Đà) được thành lập. Sự thành lập Chi bộ Đảng đánh dấu quá trình phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng để bảo vệ chính quyền non trẻ của mình.

              Sau khi giành được chính quyền, nhiệm vụ cấp bách trước mắt của cả dân tộc cũng như nhân dân Thạch Đà là tìm mọi biện pháp để chống đói: “ Chống đói cũng như chống giặc ngoại xâm”, với phong trào “ Tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa”, khẩn trương đẩy mạnh sản xuất, trồng hoa màu để giải quyết nạn đói. Chưa bao giờ tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn, no đói có nhau lại được thể hiện mạnh mẽ như lúc này. Những ngày “ Đồng tâm”, những “ Tổ cứu bần’’, “ Hũ gạo tiết kiệm” do Ủy ban lâm thời tổ chức chính là biểu hiện tính ưu việt của chế độ mới giúp việc đẩy lùi nạn đói trong toàn dân.

               Cùng với việc chống đói là chống “ giặc dốt”. Phong trào bình dân học vụ phát triển rầm rộ. Người biết chữ dạy người chưa biết chữ. Ngày tăng gia sản xuất. Tối đi học i tờ. Việc học chữ trở thành yêu cầu bắt buộc đối với tất cả mọi công dân của chế độ mới. Năm 1949 xã Thống Nhất ( Thạch Đà) được công nhận xóa xong nạn mù chữ cho các đối tượng trong độ tuổi quy định. Vậy là chỉ 4 năm sau ngày độc lập từ chỗ 90% người dân không biết chữ đến toàn dân biết chữ. Đó là một kỳ tích của chế độ mới.


             Ngày 19-12-1946, hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh:

Hỡi đồng bào!

Chúng ta phải đứng lên!

Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc.

Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm. Không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.

Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thì thắng lợi nhất định về dân tộc ta!”.

          Nhân dân Thạch Đà đã cùng với nhân dân cả nước đồng lòng đứng lên kháng chiến với tinh thần “ Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh “. Cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược để giải phóng quê hương bắt đầu từ đây.

        Đầu năm 1947 nhân dân Thạch Đà, cũng như nhân dân cả nước hưởng ứng phong trào “ Tiêu thổ kháng chiến”, xây dựng “ làng chiến đấu” thể hiện sự hy sinh và ý chí đấu tranh bất khuất của người dân Thạch Đà trong cuộc kháng chiến vĩ đại này. Tháng 10 năm 1949 thực dân Pháp bắt đầu càn quyét vùng xung quang Phúc Yên trong đó có Thạch Đà. Thạch Đà cùng nhân dân ccs xã tổ chức chống càn. Một số dân quân du kích đã đổ, mở đầu cho trang sử oanh liệt thấm đẫm máu xương và nước mắt trên mảnh đất Thạch Đà.

        Xác định Thạch Đà là một vị trí chiến lược quan trọng trong hệ thống phòng tuyến chống du kích thâm nhập cơ sở, bảo vệ bọn chỉ huy Pháp đóng ở Phúc Yên, tháng 12-1949 Pháp chiếm đóng Thạch Đà, xây đồn bốt khống chế cuộc chiến tranh bảo vệ xóm làng của dân quân du kích nhằm cắt đứt liên lạc với vùng tự do. Một mặt chúng lập ban tề, lập trạm kiểm soát để khống chế cán bộ, du kích thâm nhập địa bàn. Bọn tề ngụy còn ngấm ngầm gây chia rẽ giữa bà con theo đạo Thiên chúa và đạo Phật. Mặt khác chúng tăng cường càn quét đốt phá, hãm hiếp, tra tấn, bắn giết các cán bộ cách mạng kiên trung và nhân dân hết sức dã man. Tất cả những hoạt động đó gây không ít khó khăn, mất mát cho nhân dân và chính quyền mới.

          Bốt chính Thạch Đà ( còn gọi là đồn Tây hay bốt Tây) được xây dựng kiên cố ở dốc đê ( đường đi Tây Xá) hình đa giác, xung quanh có 7 lô cốt boong ke chìm sâu 2/3 dưới lòng đất, có tường dày 2m, cao 4,5m, có tháp canh, có đèn pha chiếu sáng suốt đêm khống chế cả một vùng rộng lớn.

          Mặc dừ vậy những người cộng sản và du kích kiên trung, những người dân một lòng, một dạ vẫn hướng về niềm tin tất thắng của cuộc kháng chiến, âm thầm chẩn bị lực lượng, vượt lên bom đạn, chết chóc, đợi thời cơ đứng dậy phá đồn bốt, diệt tề ngụy giải phóng quê hương.

          Do những nỗ lực không mệt mỏi đó, đầu năm 1952 quân dân Thạch Đà phối hợp với chiến dịch Hòa Bbinhf đẩy mạnh chiến tranh du kích, mở rộng cơ sở kháng chiến, tạo tiền đề cho cuộc đấu tranh giành chính quyền. Những thành tựu nổi bật trong giai đoạn này là:

- Cơ sở quần chúng được phát triển rộng khắp

- Chiến tranh du kích phát triển nhanh.

- Cơ sở Đảng được củng cố ngày càng vững mạnh.

           Những hoạt động như đột nhập cảnh cáo nhà lý trưởng, tập kích bốt Thạch Đà, cải trang đánh địch ở chợ Đợ... đã làm hoang mang bọn tề ngụy và lũ quan lính đang trấn giữ đồn bốt.



            Đầu năm 1953, sau thất bại ở mặt trận Hòa Bình, thực dân Pháp và bọn ngụy quân, ngụy quyền càn quiets dữ dội vùng địch hậu. Là vị trí quan trọng Thạch Đà bị chúng khống chế rất chặt, trắng trợn cướp bóc, hãm hiếp, bắt dân chặt phá cây cối để dễ bề kiểm soát và tàn sát cán bộ kháng chiến. Mặc dù vậy với ý chí và tinh thần bất khuất, nhân dân Thạch Đà đã phối hợp với bộ đội, du kích kiên quyết đánh trả những cuộc càn quét gây thiệt hại không nhỏ cho địch.

           Bước sang năm 1954, cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta chuyển sang giai đoạn quyết định. Chiến dịch Điện Biên Phủ được mở ra, cuộc kháng chiến phát triển với nhịp độ khẩn trương nhanh chóng giành chính quyền. Cùng với quân dân cả nước, quân dân Thạch Đà phối hợp với quân dân quanh vùng tổ chức chống càn, chặn đánh, quấy rối địch suốt ngày đêm. Điển hình là ngày 17-2-1954 chặn đánh địch từ Phúc Yên về càn quét ở Thạch Đà diệt 17 tên phá hủy 2 xe ô tô. Trận tập kích vị trí dã chiến ở Cư An, diệt 2 tên, bắt sống 34 tên. Trận chống càn 19-3-1954 trên vùng bãi Thạch Đà diệt 13 lính Âu – Phi, làm bị thương 6 tên ….

           Ngày 7 tháng 5 năm 1954, ta chiến thắng oanh liệt trên chiến trường Điện Biên Phủ. Chiến thắng “ lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu” này đã thổi bùng khí thế tiến công của nhân dân cả nước và làm cho kẻ địch hoang mang, hoảng sợ. Lợi dụng thời cơ đó từ ngày 25 tháng 6 đến ngày 10 tháng 7 năm 1954 ta lien tục bao vây, tiến công bốt Thạch Đà. Địch phải cho quân chi viện. Ta chặn đánh và tiêu diệt 40 tên, làm 40 tên khác bị thương. Ngày 10 tháng 7 ta lại tiếp tục tấn công và bao vây bốt Thạch Đà khiến chúng phải co cụm, cố thủ.

           Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơ – Ne –Vơ về việc lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết. Cuộc kháng chiến 9 năm thánh thần của nhân dân ta đã thắng lợi hoàn toàn.

Ngày 27 tháng 7 toàn bộ địch ở Thạch Đà rút về Phúc Yên.

Ngày 3 tháng 8 địch rút khỏi thị xã Phúc Yên.

Ngày 8 tháng 10 tên lính Pháp cuối cùng rút khỏi Vĩnh Phúc.

Trên quê hương Thạch Đà vĩnh viễn sạch bóng quân thù.

          Trong suốt 9 năm kháng chiến, mặc cho thực dân Pháp và bè lũ tề ngụy càn quét, bắt bớ, chia rẽ lương giáo nhưng nhân dân Thạch Đà vẫn một lòng đi theo kháng chiến: Đi bộ đội, vào du kích, đi dân công hỏa tuyến góp phần tích cực vào thắng lợi của cả dân tộc chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp trong gần một thế kỷ trên đất nước ta.

3. Thạch Đà cùng nhân dân miền Bắc hoàn thành cải cách ruộng đất (CCR Đ), khôi phục kinh tế, cải tạo quan hệ sản xuất.

         Cuối năm 1955, công cuộc CCR Đ ở Thạch Đà bắt đầu được tiến hành. Khẩu hiệu “ Người cày có ruộng đã trở thành hiện thực”. Kể từ đây người nông dân Thạch Đà được làm chủ ruộng đất, làm chủ nông thôn, làm chủ cuộc đời mình. Thắng lợi của CCR Đ góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh.

           Đầu năm 1958, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng, phong trào xây dựng tổ đổi công bắt đầu thực hiện tạo điều kiện để bà con trong thôn xóm giúp đỡ lẫn nhau đẩy mạnh sản xuất nâng cao đời sống sau chiến tranh. Đây là bước tập dượt để nông dân quen dần với nếp làm ăn tập thể.

           Một năm sau, năm 1959, Hợp tác xã ( HTX) nông nghiệp đầu tiên của xã ra đời ở thôn Một ( Thôn Một là một đơn vị khá nhất trong thời kỳ xây dựng tổ đổi công), lấy tên là HTX Hòa Bình với 30 hộ dân. Đến cuối năm 1960, xã căn bản hoàn thành cuộc vận động nông dân vào HTX nông nghiệp thu hút hơn 80% số hộ. Năm 1991 là 99,5%. Thợ thủ công, tiểu thương vào HTX thủ công nghiệp chiếm 90%. Nhờ tổ chức, quản lý tốt, đồng ruộng Thạch Đà xưa thường xuyên thất bát nay cày cấy 2 vụ chắc ăn, năng suất tăng lên rõ rệt. Năm 1963, HTX thôn Bốn được Hội đồng Chính phủ tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba, đánh dấu những nỗ lực không mệt mỏi của Đảng, chính quyền và nông dân Thạch Đà trong công cuộc xây dựng quê hương sau hòa bình làm thay đổi hẳn bộ mặt đời sống của nhân dân.

           Cùng với sự ổn định và phát triển về kinh tế, văn hóa, giáo dục và y tế cũng có những bước tiến mới đáng kể. Năm 1961, Trường cấp 2 Phạm Hồng Thái được thành lập đặt địa điểm ở trung tâm xã. Trường không chỉ thu hút con em Thạch Đà hết cấp 1 vào học mà còn thu hút học sinh của 7 xã phía Bắc của huyện. Trạm y tế xã được xây dựng lại khá khang trang. Cán bộ y tế được tăng cường góp phần tích cực vào phong trào vệ sinh phòng bệnh. Chính quyền còn vận động nhân dân xây dựng hố xí hai ngăn, nhà tắm, dung nước giếng. Các hủ tục cưới xin, ma chay giảm hẳn.

            Nhìn lại chặng đường hơn 10 năm ( 1954-1965) dưới chế độ mới, biết bao nhiêu biến đổi lớn lao đã đến với từng ngõ xóm Thạch Đà. Đói nghèo đã và đang dần dần mất đi. Đời sống nhân dân từng ngày được cải thiện. Những ngôi nhà gạch, những mái ngói đỏ tươi đua nhau mọc lên thay thế cho những nếp nhà gianh. Đời sống chính trị ổn định. Đời sống tinh thần được nâng lên rõ rệt. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc sống mới đang bừng lên, đảm bảo cho người dân Thạch Đà vững vàng bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ thần thánh cùng dân tộc.

4. Thạch Đà vừa sản xuẩt, vừa chiến đấu góp phần đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

            Năm 1965, đế quốc Mỹ liều lĩnh mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc. Cả nước ở trong tình trạng có chiến tranh. Hội nghị BCH TW Đảng lần thứ 12 khẳng định: “ Lúc này chống Mỹ cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người dân yêu nước”.

           Cùng với nông thôn toàn miền Bắc, Thạch Đà sống lại không khí hào hùng của những năm đi giành chính quyền, của không khí rào làng chiến đấu, trường kỳ kháng chiến đánh thắng giặc Pháp trước đây. Khẩu hiệu “ Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “ Tất cả cho tiền tuyến”, “ Tất cả vì miền Nam ruột thịt” đã đằm sâu trong tâm trí mỗi người dân.

            Công việc đầu tiên là vận động toàn dân đào hầm trú ẩn để bảo đảm an toàn tài sản và tính mạng cho nhân dân. Những hố cá nhân, những hầm chữ A mọc lên ở khắp mọi nơi, từ sân vườn, đường đi đến các trường học, trạm xá. Trận địa bắn máy bay cũng được dựng lên sẵn sàng đánh phá. Các đội cứu thương được thành lập, được huấn luyện để có thể sơ cứu ban đầu nếu tình hình chiến sự xảy ra. Lực lượng dân quân du kích được tăng cường về mọi mặt, được huấn luyện và luyện tập quân sự, bắn máy bay, bắt giặc lái… để sẵn sàng chiến đấu.

              Những năm chống chiến tranh phá hoại nhân dân Thạch Đà luôn nêu cao khẩu hiệu “ Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người:. Thanh niên có phong trào “ Ba sẵn sàng”; phụ nữ có phong trào” Ba đảm đang”. Tất cả đều sẵn sàng tư thế “ Giặc đến là đánh, giặc đi lại sản xuất:, Thanh niên cả nước xung phong tình nguyện lên đường giết giặc lập công. Nhiều thanh niên trích máu viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Có những thanh niên nhỏ con tìm cách dấu đá vào người cho đủ cân. Nhiều gia đình có con là liệt sĩ trong thời kỳ chống Pháp thuộc diện miễn hoãn vẫn kiên quyết xin cho con đi bộ đội.

            Trong suốt 10 năm chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ và chi viện cho Miền Nam ruột thịt Thạch Đà đã có hơn 1.000 người con trực tiếp tham gia chiến đấu ở khắp các chiến trường lập được nhiều chiến công xuất sắc. Nhiều đồng chí được công nhận là dũng sĩ diệt Mỹ, được tặng thưởng huân huy chương các loại trong đó có đồng chí Phùng Quang Thanh, người con trai duy nhất của liệt sĩ chống Pháp Phùng Quang Sức là dũng sĩ diệt Mỹ và năm 1971 được phong tặng danh hiệu Anh hùng.

             Trong số trên 1.000 thanh niên “ Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” có 168 đồng chí đã hy sinh vì nêbf độc lập, tự do của Tổ quốc, 54 đồng chí là thương binh. Nhân dân Thạch Đà không bao giờ quên ơn và luôn luôn ghi nhớ công lao và sự hy sinh to lớn đó.

            Nếu thanh niên có phong trào ‘ Ba sẵn sàng” để “ Quân không thiếu một người” thì chị em phụ nữ có phong trào “Ba đảm đang” để “ Thóc không thiếu một cân” phục vụ chiến đấu. Trên 80% chị em là lực lượng chủ lực trong lao động sản xuất với “ đường cày đảm đang”, “ tay cày, tay sung” đã thực sự là những người mẹ, người chị, người vợ, người em anh hùng ở hậu phương góp phần không nhỏ vào cuộc chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

            Cùng với lớp con cháu, các cụ phụ lão cũng có nhiều đóng góp vào sự nghiệp chung chống Mỹ. Trung đội “ Bạch đầu quân” của các cụ không những tích cực tham gia lao động sản xuất mà còn làm nhiều công việc có ý nghĩa khác như động viên con cháu lên đường nhập ngũ, ươm hạt, trồng cây. Những hoạt động của các cụ là nguồn cổ vũ động viên tinh thần to lớn cho thế hệ trẻ yên tâm lên đường chiến đấu.

              Trong suốt 10 năm, Đảng bộ và nhân dân Thạch Đà đã đóng góp một phần không nhỏ vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà đỉnh cao chói lọi là Đại thắng Mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước. Với những đóng góp đó, Đảng bộ và nhân dân Thạch Đà đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng trên 1000 Huân, Huy chương kháng chiến, hang trăm Cờ thưởng và Bằng khen các loại.

5. Thạch Đà trên con đường phát triển và hội nhập.

            Ngay sau ngày thống nhất Tổ quốc, nhân dân Thach Đà cùng nhân dân cả nước chuyển sang giai đoạn mới: Giai đoạn Cách mạng Xã hội chủ nghĩa.

           Từ năm 1976 đến năm 1985 là giai đoạn 10 năm nhân dân Thạch Đà cùng nhân dân cả nước thực hiện hai kế hoạch 5 năm ( 1976 – 1980 và 1981 – 1985).

            Đặc điểm nổi bật trong thời kỳ này của Đảng bộ và nhân dân Thạch Đà là củng cố và phát triển HTX Nông nghiệp từ quy mô thôn lên quy mô toàn xã ( 1976). Thời gian đầu, do có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Đảng ủy, Hợp tác xã Thạch Đà đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ, Hợp tác xã đã loại bỏ sự phân công trong từng đội sản xuất mang tính chất khép kín bằng việc tổ chức phân công lao động theo hình thức chuyên môn hóa từng khâu với 20 đội sản xuất cơ bản và 6 đội chuyên ( giống, làm đẩt, thủy nông, bảo vệ thực vật, chăn nuôi…). Việc tập trung được tư liệu sản xuất, nguồn lao động và vốn, mở ra những điều kiện mới để chuyên môn hóa, thâm canh lúa và cải tạo đồng ruộng. Nhờ những cố gắng không biết mệt mỏi của Đảng bộ và nhân dân diện tích gieo cấy hang năm đều vượt mức kế hoạch, năng suất đạt 5 tấn/ha, sản lượng lúa đạt trên 1000 tấn.

              Tuy nhiên, HTX quy mô toàn xã ngày càng bộc lộ nhiều thiếu sót: Cơ sở vật chất nhỏ bé, năng lực cán bộ yếu kém nên lung túng trong quản lý và điều hành. Việc tổ chức đội chuyên, áp dụng hình thức khoán việc đã dẫn đến những tiêu cực, ai biết việc của người ấy không cần biết đến những tiêu cực, ai biết việc của người ấy không cần biết đến những khâu khác khiến cho công việc tổng thể chuệch choạc, gian dối làm cho năng suất ngày càng giảm sút, vật nuôi suy giảm, gầy yếu, dẫn đến đời sống của người nông dân gặp nhiều khó khăn sinh ra chán nản không thiết tha với đồng ruộng, bỏ đi làm ăn khắp nơi.

                Mô hình HTX theo hướng tập trung quan liêu bao cấp đứng trước những khó khăn, thử thách to lớn buộc phải chuyển sang mô hình sản xuất mới. Năm 1981, Chỉ thị 100 của Ban Bí thư TW Đảng ra đời: Xóa bở cơ chế quản lý tập trun quan liêu bao cấp, áp dụng cơ chế khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, chấm dứt tình trạng “ cha chung không ai khóc”. Đồng thời với việc khoán sản phẩm đến người lao động, vấn đề thủy lợi, phân bón “ nhất nước, nhì phân” được coi là xương sống của sản xuất nông nghiệp. Chăn nuôi cũng trở thành nghành sản xuất chính cân đối với trồng trọt. Đàn lợn gia đình và trâu bò phát triển mạnh và ổn định.

               Cùng với nông nghiệp, các mặt công tác khác của xã cũng giành được những thắng lợi đáng kể. HTX mua bán có nhiều cố gắng đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển sản xuất, phục vụ nhân dân. HTX tín dụng, HTX thủ công cũng được củng cố và tăng trưởng.

                Như vậy là sau 10 năm phá bở cơ chế quan liêu bao cấp trong nông nghiệp, bộ mặt xã hội của Thạch Đà đã có những đổi thay căn bản, mang ý nghĩa cách mạng sâu sắc. Xóm làng giờ đây đã khang trang hơn. Đường làng, ngõ xóm sạch sẽ, quang đãng, ngói hóa 90% nhà dân. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế có những bước tiến đáng kể. Hệ thống loa truyền thanh được lắp đặt đến từng ngõ xóm. Nếp sống văn hóa mới bước đầu có những chuyển biến đáng mừng.

                 Mặc dù có nhiều cố gắng và đã có những đổi thay đáng kế sau khi thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư TW Đảng như đã nêu trên, song nhìn chung cả nước cũng như Thạch Đà đã gặp phải không ít những khó khăn vấp váp. Những năm 1985 – 1986 đất nước ta thực sự lâm vào tình trạng khủng hoảng trước hết là khủng hoảng về kinh tế, xã hội.

                Trước tình hình đó, để đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và đẩy cách mạng tiến lên, Đảng và Nhà nước ta phải đổi mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI ( tháng 12 năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới: Đổi mới toàn diện Và đồng bộ, từ kinh tế, chính trị đến tổ chức, tư tưởng, văn hóa, đổi mới kinh tế phải gắn liền với đổi mới chính trị, nhưng trọng tâm là đôi mới về kinh tế.

                Đường lối đổi mới của Đảng được sự hưởng ứng rộng rãi của dư luận xã hội, đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và đạt được thành tự trên tất cả các lĩnh vực của đời sống của người dân Thạch Đà. Đảng bộ và nhân dân Thạch Đà nắm bắt thời cơ nhanh chóng hội nhập, cùng nhân dân cả nước bước những bước vững chắc trên con đường đổi mới. Chưa bao giờ bộ mặt của Thạch Đà lại thay đổi nhanh chóng như thời kỳ này.

               Mạng lưới điện quốc gia đã về đến từng nhà dân, tạo điều kiện cho sự phát triển về mọi mặt trong đời sống.

             Đường sá theo phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm” đã được mở rộng và bê tông đến từng ngõ xóm tạo thuận lợi cho giao thông và phát triển kinh tế.

              Giáo dục là “ Quốc sách hàng đầu” đi trước một bước. Các trường học được xây dựng kiên cố, có đầy đủ các phòng chức năng, có các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho giảng dạy và học tập đạt Trường Chuẩn Quốc gia như trường Tiểu học Thạch Đà A được đầu tư trên 14 tỷ đồng và được đưa vào sử dụng năm 2006. Trường THCS Phạm Hồng Thái tọa lạc trên một diện tích 11.000m2 với 20 phòng học, 10 phòng chức năng, 01 nhà giáo dục thể chất với tổng kinh phí đầu tư trên 14 tỷ đồng. Các trường Mầm non cao tầng cũng đang được hoàn thiện.

               Chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp học được nâng cao rõ rệt. Số lượng học sinh giỏi cấp huyện và cấp thành phố ngày một nhiều hơn. Số lượng học sinh thi đỗ vào các trường cao đẳng và đại học ngày càng tăng. Năm học 2011- 2012, toàn xã có 50 học sinh đỗ vào các trường Cao đẳng và Đại học. Đó là bước tiến mới rất đáng mừng của giáo dục Thạch Đà.

                Cơ sở chữa bệnh ban đầu cho nhân dân được kiện toàn. Trạm xá xã đã có bác sĩ và đội ngũ y tá khá vững vàng.

              Bên cạnh trạm xá còn có Phòng khám đa khoa khu vực Thạch Đà của Trung tâm Y tế huyện Mê Linh, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân khám chữa bệnh.

             Chợ Thạch Đà ngày càng sầm uất với đầy đủ các mặt hang từ nông sản đến máy móc điện tử hiện đại.

            Phố huyện xưa, nay là phố làng nhưng khá khang trang với hai dãy cửa hàng, cửa hiệu phong phú và đa dạng. Phố cũng đã vào làng. Trong làng nhiều biệt thự khá sang trọng không phải chỉ của các doanh nhân thành đạt mà còn của chính bà con nông dân Thạch Đà sau những năm đổi mới.

            Bên cạnh nông nghiệp, các nghành nghề phát triển mạnh như xây dựng, buôn bán, dịch vụ v.v… Nhịp sống ở nơi thôn dã giờ đây năng động không kém gì nơi đô thị.

            Cùng với những thành tựu về kinh tế, văn hóa, xã hội, Thạch Đà còn nhiều người trưởng thành giữ những trọng trách lớn, cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước và quân đội, trong đó có người con ưu tú nhất của nhân dân Thạch Đà là Đại tướng Phùng Quang Thanh, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy TW, Đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Nhiều doanh nghiệp, doanh nhân đẳng cấp quốc gia đã xuất hiện cho thấy sự năng động, dám nghĩ, dàm làm của người dân Thạch Đà trong thời kỳ đổi mới.

              Tóm lại, những thành quả trên đây có thể coi là một “ kỳ tích” của Đảng bộ và nhân dân Thạch Đà có được trong quá trình đổi mới và hội nhập. Từ nền kinh tế độc tôn nông nghiệp “ dĩ nông vi bản” đã phát triển thành nền kinh tế đa ngành, đa nghề với kết cấu Nông – Công – Thương, kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Bằng tinh thần yêu nước, bằng sự năng động và sáng tạo, bằng trí tuệ, bằng bàn tay tài hoa … những người con của Kẻ Đợ - Thạch Đà đã có mặt ở khắp mọi miền Tổ quốc, đóng góp sức lực và tài năng của mình vào công cuộc xây dựng quê hương và đất nước góp phần làm cho quê hương, đất nước ngày càng trở nên cường thịnh.








Phần 2: QUÊ HƯƠNG MỖI NGƯỜI CHỈ MỘT

I. QUÊ HƯƠNG LÀ GÌ….

MÀ AI ĐI XA CŨNG NHỚ NHIỀU

               Thạch đà quê tôi có tên Nôm là Kẻ Đợ. Xưa, các cụ gọi những nơi dân cư tập trung đông đúc, có chợ búa, có mua bán trao đổi là Kẻ: như Kẻ Đợ ( Thạch Đà), Kẻ Sặt ( Phú Mỹ), Kẻ Mỏ ( Minh Tân), Kẻ Dưng ( Tứ Trưng), Kẻ Giang ( Thổ Tang), Kẻ Gốm ( Sơn Đông) … “ Đi đâu mà chẳng biết ta/ Ta là Kẻ Láng vốn nhà trồng rau…” ( Ca dao)

                Thạch Đà là tên làng đồng thời cũng là tên xã. Đó là vùng quê nửa đồng, nửa đồng, nửa bãi dọc theo con đê phía tả ngan song Hồng. Xưa, Thạch Đà thuộc huyện Yên Lãng – Tỉnh Vĩnh Phúc. Nay thuộc huyện Mê Linh. Thành phố Hà Nội.

               Người Thạch Đà vừa nhạy cảm, vừa rất năng động trong cuộc mưu sinh, quyết không bó tay thúc thủ chịu cảnh đói nghèo sau lũy tre làng. Cái tên Kẻ Đợ từ thời xa xưa đã cho ta thấy hết sự năng động ấy.

                Xưa đã năng động. Nay càng năng động hơn. Trên dải đất hình chữ S, từ chót mũi Cad Mau, nơi nhà văn Nguyễn Tuân ví như “ ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm” đến chòm Lũng Cú tít trên đỉnh cao nguyên đá Hà Giang, gần như không nơi nào là không có người Kẻ Đợ làm ăn sinh sống.

                Nhưng có lẽ người Kẻ Đợ - Thạch Đà ở Hà Nội là đông đúc và thành đạt hơn cả.

              Người Kẻ Đợ - Thạch Đà xa quê, ly quê nhiều lắm. Vì hoàn cảnh gia đình. Vì điều kiện công tác. Vì cuộc mưu sinh. Và vì muôn vàn những lý do này khác…

              Nhưng cho dù với bất cứ vì lý do gì thì những người con Thạch Đà xa quê, ly quê đều có chung một nỗi niềm đau đáu: NHỚ QUÊ. Nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn. Nhớ về nơi cất tiếng khóc chào đời, nơi bập bẹ những tiếng nói đầu tiên. Nhớ về miền đất thân thương gắn bó với máu thịt ruột già của nội, của ngoại, của cô dì, chú bác… Nhớ tiếng trống trường háo hức của một thời trẻ dại. Nhớ về lũ bạn đầu trần, chân đất “ ngày hai buổi tới trường” nghịch như quỷ sứ. Nhớ các thầy, cô như những người mẹ hiền cho ta chữ nghĩa và đạo lý làm người.

                Quê hương là vậy. Nó luôn luôn là nỗi niềm day dứt, luôn thường trực trong ký ức của mỗi người con xa quê . Khi thì nó ẩn náu sâu thẳm trong cõi lòng, khi thì nó bỗng dâng trào trong trái tim thổn thức, trong khóe mắt thăm thẳm, vời vợi ngóng về chốn xa xăm nơi hương đồng, cỏ nội.

                 Quê hương ơi! Có phải thế không? Có phải thế không mà nhớ đến nao lòng, nhớ đến quay quắt! Nhớ bao nhiêu những kỷ niệm vui buồn, yêu thương, hơn giận… Nhớ mái đình, cây đa, giếng nước. Nhớ hai cây gạo trên triền đê sau Đền chẳng biết có từ bao giờ mà gốc xù xì những u, những bướu, sừng sững như hai vệ sĩ canh gác cho sự bình yên của làng quê. Và cứ mỗi độ tháng ba về, nhìn phía trời xa thấy thấp thoáng bóng hai ngọn “ hải đăng” thì lại kêu lên: Làng mình kia rồi và bao nhiêu nỗi mệt nhọc đều như tan biến đâu hết. Giờ thi hai cây gạo cổ thụ thiêng liêng ấy không còn nữa. Ước gì có được phép màu để ở đó lại mọc lên hai cây gạo như xưa, để người già nhớ về một thời đáng nhớ, để lớp trẻ xa quê khi trở về thấy thấp thoáng ngọn hai cây gạo lại ồ lên: Làng mình kia rồi! Nhớ những cái ao làng đặc sệt bèo tấm, hoa sung nở sáng bừng, tung tăng những chú cá săn sắt có hai dải đuôi cờ đẹp như những nàng tiên cá trong truyện cổ tích. Nhớ chợ Đợ lầy lội những bùn, những rơm rác, phân tro mà vẫn tấp nập kẻ mua, người bán những ngày Ba, ngày Năm, ngày Tám… Nhớ con đê sông Cái lừng lững như trưởng thành vững chắc, bảo vệ quê nhà qua bao mùa mưa lũ,… Nhớ về miền thơ ấu, về những bạn bè cùng trang lứa thời chăn trâu cắt cỏ. Nhớ những trận mưa đầu hạ sấm chớp ùng oàng, cùng nhau đuổi bắt cào cào, châu chấu, cùng nhau rượt đuổi: “ …cá vượt vũ môn …” trong tiếng cười đùa vô tư lự của tuổi ấu thơ. Nhớ những buổi chiều lộng gió lùa đàn trâu no căng bụng từ ngoài bãi sông Hồng về con đê đầu làng để lũ con gái thì chơi chuyền, đánh chắt, chơi ô ăn quan còn lũ con trai thì chơi đáo, thả diều. Chao ôi là nhớ! Nhớ cái cảm giác lâng lâng tưởng như bay lên tận chín tầng mây khi cánh diều no gió, bay tít tận trời xanh. Có lẽ đó là lúc sung sướng nhất, được nằm ngửa trên thảm cỏ xanh, lắng nghe âm thanh khi trầm, khi bổng, khi réo rắt… của tiếng sáo diều và cả tiếng hò reo vui đùa của lũ con gái đang chơi trồng nụ, trồng hoa. Nhớ bóng tre xanh yểu điệu như cô thôn nữ nghiêng mình chải tóc trên bến nước ao đình. Nhớ bóng tre xanh rợp mát đường làng, âu yếm trùm lên những mái nhà gianh và thấp thoáng dưới bóng tre xanh là mái chùa cổ kính. Tre như người bạn chứng kiến bao mối tình trắng trong, thủy chung. Nhớ tiếng sấm tháng ba, bão giông tháng bảy. Nhớ hoa cỏ may níu giữ chân người. Nhớ cây xấu hổ hoa tím rặp bờ ao, có ai khẽ đụng vào thì thẹn thùng, e ấp như nàng trinh nữ lỡ chạm tay vào chàng trai lạ. Nhớ con sông Mẹ quanh năm đỏ nặng phù sa như dải lụa đào ôm ấp bãi bờ mầu mỡ xanh ngút ngát những mía, những dâu, những ngô, những vừng, những lạc… mùa nào thức ấy nuôi sống dân làng… Chao ôi là nhớ! Nhớ đồng Mung, đồng Áng, đồng Lần, đồng Nủ, đồng Xốm, đồng Cổng Tung, đồng Đông An… Những cái tên sao mà quê kiểng, gần gũi, thân thương đến thế! Nhớ ấm áp ổ rơm, nhớ nồng nàn hương lúa. Nhớ cha ta cặm cụi cày sâu cuốc bẫm, cõng trên lưng bao nỗi nhọc nhằn, đắng cay trên cánh đồng làng. Nhớ mẹ ta, đòn gánh tre chin rạn đôi vai, nay chợ Đợ, mai mốt chợ Hạ, chợ Sặt, chợ Yên, chợ Phùng… nuôi ta không lớn từng ngày. Nhớ mái tóc bà bạc trắng như mây. Nhớ đôi mắt hiền từ. Nhớ nụ cười đôn hậu. Nhớ những đêm gió mát trăng thanh, trên chiếc chõng tre ngoài hiên thoang thoảng hương cau, hương bưởi bà ta vừa bỏm bẻm nhai trầu vừa kể cho ta nghe những Sự tích trầu cau, những Lưu Bình, Dương Lễ, những Nỗi oan Thị Kính, những lẳng lơ Thị Màu, những hiền từ cô Tấm, những độc ác Lý Thông … những “ Ở hiền thì lại gặp hiền/ Người ngay thì gặp người tiên độ trì…”. Nhớ tiếng võng trưa hè kẽo kẹt. Nhớ ầu ơ câu hát bà ta đưa ta vào giấc ngủ êm đềm:

“ Hỡi cô thắt dải lưng xanh,

Có về làng Đợ với anh thì về…”

                Ôi cái làng Đợ của ta sao mà ta nhớ, ta yêu đến thế! Những Thôn Một, Thôn Hai, Thôn Ba, Thôn Bốn… Những Quán Ngói, Cổng Tiên, những Xóm Đông, Đê Bối… sao mà thân thương, sao mà gần gũi. Xưa thời thơ ấu ta ở trong làng, giờ trưởng thành, xa quê làng lại ở trong ta. Giữa những bộn bề của cuộc mưu sinh, giữa cái ồn ào, gấp gáp nơi đô thành càng nhớ cái không khí bình yên, tĩnh lặng của quê hương với biết bao kỷ niệm êm đềm. Nhớ lắm, nhớ da diết, nhớ đến quắt quay vì QUÊ HƯƠNG chính là nội, là ngoại, là cô dì, chú bác… là tiếng chuông chùa, là cây đa, bến nước, sân đình, là ao rau muống, là cà dầm tương … là tất cả những thứ đã đằm sâu trong ký ức, đã trở thành HỒN QUÊ ngấm vào máu thịt ta, trả lời cho ta câu hỏi: “ Quê hương là gì… mà ai đi xa cũng nhớ nhiều! “.


II- HỒN QUÊ BIỂN RỘNG TRỜI CAO,

MƯỜI LĂM NĂM ẤY BIẾT BAO NHIÊU TÌNH

1. Hội tụ

            Nhớ quê là tâm trạng, là tình cảm của tất cả những ai xa quê. Xa quê nhưng tình quê hương, tình làng, nghĩa xóm thì lúc nào cũng canh cánh bên lòng. Nó thôi thúc những người con Thạch Đà đang sinh sống, làm ăn ở Hà Nội tìm đến với nhau. Và, những người tâm huyết như các ông bà Phùng Quang Thanh, Nguyễn Khắc Sáu, Nguyễn Thị Tâm Đỉnh… đã trở thành nòng cốt vun đắp cho sự hội tụ đó. Cái ngày hội tụ đầu tiên rất đáng nhớ ấy là vào một ngày đầu xuân năm 1999, ngày 18 tháng 03 ( tức ngày 14 tháng 3 năm Kỷ mão) tại nhà riêng gia đình ông Nguyễn Khắc Sáu, số nhà 18 phố Kim Đồng, gồm 23 người đại diện cho 15 hộ gia đình ở Hà Nội. 15 hộ gia đình đó là:

1 . Gia đình ông Nguyễn Khắc Sáu

2. Gia đình Bà Nguyễn Thị Tâm Toán

3. Gia đình Ông Lưu Văn Sỏi

4. Gia đình Ông Lê Văn Mơ

5. Gia đình Ông Nguyễn Khắc Nghi

6. Gia đình Ông Nguyễn Văn Đức

7. Gia đình Ông Nguyễn Hữu Đỉnh

8. Gia đình Ông Phùng Quang Hiền

9. Gia đình Ông Phùng Đình Đạt

10. Gia đình Ông Nguyễn Văn Đỉnh

11. Gia đình Bà Lê Thị Hợi

12. Gia đình Ông Lưu Văn Năm

13. Gia đình Ông Nguyễn Đình Thịnh

14. Gia đình Bà Nguyễn Thị Hằng

15. Gia đình Ông Lê Văn Bụi

Ông Phùng Quang Thanh vì bận công việc nên không đến được.

             Ngày gặp gỡ, đoàn tụ đầu tiên ấy thật đầm ấm, chân tình và hết sức vui vẻ. Đây đúng là cuộc sum họp của những người con trong đại gia đình Thạch Đà “ nhất Thôn, nhất Xã” xa quê gặp lại nhau sau bao năm xa cách.

              Thật vui và cảm động, gần gũi, thân tình và cả ngỡ ngàng trước sự trưởng thành và đổi thay của mỗi người. Mới ngày nào đấy thôi mà giờ đã nên ông, nên bà cả rồi. Những ký ức về quê hương, về tuổi ấu thơ cùng ùa về tràn ngập cả căn nhà ấm cúng. Trong cái không khí cởi mở, thân tình ấy mọi người tíu tít như sống lại tuổi ấu thơ, cùng ôn lại, cùng tranh nhau kể những chuyện vui, chuyện buồn của cái thời còn ngây ngô bên lũy tre làng với bao nỗi vất vả, nhọc nhằn nhưng thật đẹp, thật đáng yêu. Trong những câu chuyện tưởng chừng như không có hồi kết đó, vui nhất vẫn là chuyện “ nhất quỷ, nhì ma…”. Thôi thì đủ thứ. Vui có. Buồn có. Quỷ quái, tinh ma cũng có. Nửa ngày đi học. Nửa ngày đi làm giúp đỡ bố mẹ. Nhiều hôm đến lớp không thuộc bài sợ run lên, lấm lét nhìn thầy dò bút trên sổ điểm rồi thở phào nhẹ nhõm khi giây phút kiểm tra cang thẳng đi qua. Kể cho nhau nghe cả những lần quay cóp trong giờ kiểm tra bị thầy bắt được. Những lần như vậy thầy nói gì, bạn bè nhìn mình ra sao giờ vẫn còn nhớ… Chúng tôi đã lớn lên theo từng lớp học dưới mái trường quê cùng bạn bè và những người thầy đáng kính như vậy. Các thầy đã không những trang bị kiến thức mà còn thắp sáng những ước mơ và hoài bão cho chúng tôi. Bọn học trò nhà quê chúng tôi ngoài giờ đến trường còn lại suốt ngày đánh vật với ruộng đồng, với lúa, ngô, khoai, sắn mà vẫn ngỡ ngàng cãi vã nhau chí chết về cái mà thường ngày ta vẫn gọi là củ lạc thì thực chất nó là “ củ” hay “ quả” đây? Chuyện chúng tôi lẽo đẽo theo thầy mò tôm, mò cá, bắt ếch, bắt trai trai… phục vụ cho giờ thực hành cấu tạo trong của động vật. Dao mổ là dao lam, đinh ghim là gai xương rồng, gai tầm xong chúng tôi bẻ ở bờ rào còn bàn mổ là bẹ chuối ( Hồi đó làm gì có dao mổ, có kẹp, có đinh ghim, bàn mổ… như bây giờ). Sợ nhất là đi bắt đỉa. Tuy là con nhà nông chính hiệu nhưng đâu phải đứa nào cũng không sợ đỉa, vẫn có đứa sợ chết khiếp, nhất là tụi con gái. Khó khăn nhất là giờ thực hành cấu tạo trong của chim bồ câu. Lấy đâu ra chim. Tiền thì không có. Có đứa bàn đi bắt trộm. May mà các thầy biết, ngăn chặn kịp thời. Cuối cùng thì vẫn có. Phụ huynh cho. Chẳng biết có phải do các thầy làm công tác xã hội hóa giáo dục hay không? Ngày đó ai cũng nghèo, cái gì cũng khó, vậy mà cũng có người giúp các thầy. Thật quý! Vui nhất và cũng “ sợ” nhất là giờ thực hành động cơ phản lực. Thầy trò chúng tôi lấy than xoan, lưu huỳnh và muối kali nitrat tán nhỏ mịn như bột rồi trộn đều với nhau làm thuốc nổ. Khâu trộn và nhồi thuốc là giai đoạn khó khăn nhất. Không cẩn thận, khéo léo là phát nổ ngay. Quả tên lửa được trang trí khá đẹp đặt trên bệ phóng bằng tre để ở giữa sân bóng. Lớp thực hành đứng cách xa ở hai bên. Giờ phút thử nghiệm thật trang nghiêm, căng thẳng và hồi hộp. Thầy cầm cái bùi nhùi, trịnh trọng châm ngòi, lửa cháy xèo xèo rồi phát ra một tiếng nổ chat chuá. Quả tên lửa vọt bay lên theo chiều cầu vồng rồi rơi xuống cuối sân bóng trong tiếng vỗ tay hò reo, la hét ầm ĩ của lũ học trò chúng tôi. Thế đấy, các thầy đã khai sáng cho lũ nhóc chúng tôi biết bao điều mới lạ mà bây giờ khi đầu đã hai thứ tóc chúng tôi vẫn nhớ như in.

              Hết chuyện trẻ con, chuyện học trò đến chuyện rời quê xa nhà. Người thì vào đại học . Kẻ đi làm ăn xa. Những ngày ở giảng đường đại học với biết bao hoài bão. Những ngày vật lộn với cuộc mưu sinh với lắm nhọc nhằn, vất vả đắng cay… và còn bao nhiêu chuyện vui buồn khác nữa.

               Sau những hồi ức vui, buồn đó, chúng tôi thống nhất thành lập Ban lien lạc đồng hương Thạch Đà ở Hà Nội để có điều kiện gặp gỡ, chia sẻ, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Để cho tình làng, nghĩa xóm ngày càng trở nên thân thiết, gần gũi. Để cùng nhau góp phần nhỏ bé chia sẻ, tri ân đối với quê hương làng xóm nơi đã nuôi mình lớn khôn, trưởng thành. Một lớp người thưở đó giờ đã thành đạt trên nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Chúng tôi hoàn toàn có quyền tự hào về những người con của quê hương Thạch Đà giàu truyền thống như các ông, bà: Phùng Quang Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy TW, Đại biểu Quốc hội, Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Lê Thanh Bình, Trung tướng, Chính ủy Tổng cục công nghiệp quốc phòng, Bộ Quốc phòng, Đại tá Nguyễn Văn Mùi, Phó giám đốc CT trực thăng miền Bắc, Bộ Quốc phòng, Đại tá Phùng Viết Luận, Đại tá Nguyễn Hữu Na, Đại tá Nguyễn Tiến Thắng, Phó Chủ nhiệm Chính trị Bộ đội Biên phòng, Tiến sĩ Nguyễn Hữu Sơn, Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Tổng giám đốc CT TNHH một thành viên xe đạp Thống nhất, Tiến sĩ Đỗ Viết Minh, Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ, Tiến sĩ Đoàn Văn Thắng, Phó GĐ Ngân hang Bưu điện Liên Việt, Phó Tiến sĩ kinh tế Vũ Thị Tuấn Anh, chuyên viên phái đoàn Liên minh châu Âu, Đại tá Phùng Quang Bích, Trưởng ban Dự án Tổng Công ty ĐTPT nhà ở và đô thị Bộ Quốc Phòng, Thượng tá Phùng Viết Giới, Phó CN chính trị trường CĐCN Quốc Phòng, Phùng Viết Điều, Chánh VP Ban cán sự Đảng VPCP, Phùng Quang Hùng, Phó TG Đ CT Công đoàn Ngân hang ĐT& PT Việt Nam, Lưu Văn Thịnh, Phó Cục Trưởng Cục Quy hoạch đất đai, Tổng cục quản lý đất đai Bộ TN &MT, Nguyễn Duy Mạnh Hùng, Phó Trưởng ban tổ chức và nhân sự Tổng công ty điện lực miền Bắc, Nguyễn Anh Tuấn, Thạc sĩ kinh tế, Phó Trưởng phòng VPUBQG về hợp tác kinh tế quốc tế, Lê Tuyên Hồng Dương, Phó G ĐBV Giao Thông, Trần Vũ Long Phó G ĐCT phụ tùng cơ điện Bộ NN& PTNT v.v…

                Bên cạnh những người con Thạch Đà trưởng thành là cán bộ cao cấp, tung cấp của Đảng và Nhà nước còn có những người con Thạch Đà là doanh nhân thành đạt trong thời kỳ đổi mới như các ông bà: Phùng Viết Tân, Phùng Đình Đạt, Phùng Minh Minh G ĐBV Đông Á, Mê Linh, Hà Nội, Nguyễn Trung Kiên CTH ĐQT kiêm G ĐCTCP Truyền thông ( Centech), Nguyễn Sơn Trường, G ĐCTTNHH Trường – Thủy – Đức, Nguyễn Văn Tuấn C ĐCT Điện máy Thái Việt … Và rất nhiều người là giảng viên các trường Đại học, Cao đẳng, là Luật sư, Bác sĩ, là Nhà giáo trong các trường phổ thông và Chuyên nghiệp mà ta không thể nêu hết tên tuổi của họ ở đây.

                Trong những người Thạch Đà làm rạng danh quê hương không thể không nhắc đến tên một người con của Thạch Đà đã gặt hái được nhiều thành công trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật: Nhà thơ Ngân Vịnh. Ngân Vịnh tên thật là Phùng Ngân Vịnh, vốn là lính Sư đoàn 2 quân Giải phóng khu 5, đã tham gia trận đánh nổi tiếng Ba Gia- Vạn Tường mùa hè năm 1965, đặt một mốc lịch sử khẳng định sự thất bại của “ Chiến lược chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - ngụy. Ngân Vịnh là tác giả của 8 tập thơ. Đã từng đoạt giải Nhì cuộc thi thơ Báo VNQ Đ năm 1984, giải Nhì cuộc thi thơ báo Phụ nữ năm 1994. hiện là hội viên Hội nhà văn Việt Nam…

                 Tiếp bước cha anh, một lớp trẻ đông đảo con cháu sau này cũng xứng danh cùng cha chú như Nguyễn Trung Kiên ( 1975) Chủ tịch H ĐQT kiêm GĐCTCP truyền thông Cen-tech, Lê Xuân Chung (1978) Kiến trúc sư CTCP Tư vấn phát triển kiến trúc Việt Nam, Nguyễn Anh Tuấn ( 1983) thạc sĩ kinh tế Bộ công thương, nguyễn Thị Thúy (1984) Chuyên viên quan hệ Quốc tế - Kiểm toán Nhà nước v.v…

                   Trong không khí phấn chấn, vui mừng của ngày sum họp, chúng tôi đã thống nhất cử ra Ban lien lạc để duy trì và điều hành hoạt động của hội, làm cho hội ngày càng phát triển đông đảo, không chỉ của những người con xa quê ở Hà Nội mà là tất cả những người con Thạch Đà xa quê ở trên khắp mọi miền Tổ quốc.

Ban lien lạc đầu tiên gồm có 5 ông bà:

1. Ông Nguyễn Văn Đức – Trưởng ban, phụ trách chung.

2. Ông Nguyễn Khắc Sáu – Phó ban, phụ trách công tác phát triển hội và đối ngoại

3. Bà Lê Thị Hợi - Ủy viên, phụ trách công tác hậu cần, thăm hỏi.

4. Bà Nguyễn Thị Tâm Toán – Phó ban, phụ trách công tác tổ chức và tài chính.

5. Ông Lê Văn Bụi - Ủy viên phụ trách công tác hiếu hỷ.

               Kết thúc buổi họp mặt “ lịch sử” này là một bữa cơm thân mật, ấm cúng, đầy ắp tiếng cười và niềm vui, dù rằng hôm đó trời mưa, chợ xa và toàn là những đầu bếp nhà ra tay.

              Suốt trong 15 năm hoạt động, BLL đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình làm cho hội ngày càng phát triển bền vững.

Sau đây là những thành viên BLL qua các thời kỳ:

· Năm 2000: ( 5 người)

Bà Lê Thị hợi và ông Lê Văn Bụivnghir. Bổ sung hai ông bà:

1. Ông Nguyễn Hữu Na

2. Bà Nguyễn Hương Sen

· Năm 2001: ( 6 người)

Ông Phùng Quang Thanh về Hà Nội, BLL được sắp xếp lại như sau:

1. Ông Phùng Quang Thanh – Trưởng ban, phụ trách chung

2. Ông Nguyễn Khắc Sáu – Phó ban, phụ trách tổ chức, đối ngoại.

3. Bà Nguyễn Thị Tâm Toán – Phó ban phụ trách TC, HC, KH, tham quan DL

4. Ông Nguyễn Hữu Na – Phó ban phụ trách TC, HC tham quan DL

5. Ông Nguyễn Hữu Đỉnh - Ủy viên phụ trách việc hiếu hỷ, thăm hỏi.

6. Bà Lê Thị Lợi - Ủy viên phụ trách việc hiếu hỷ, thăm hỏi

· Các năm 2002, 2003, 2004, 2005 – BLL giữ nguyên như năm 2001

· Năm 2006 ( 6 người)

Ông Nguyễn Khắc Sáu xin nghỉ. BLL bổ sung ông Nguyễn Khắc Kiên.

· Năm 2007: ( 8 người)

BLL bổ sug thêm 2 người là:

1. Ông Nguyễn Văn Đỉnh

2. Ông Lưu Văn Sỏi

· Năm 2009: (10 người)

Ông Nguyễn Hữu Đỉnh xin nghỉ vì lý do sức khỏe. BLL bổ sung hai ông:

1. Ông Nguyễn Hữu Sơn

2. Ông Lê Văn Mơ

· Năm 2010: ( 10 người)

Thành phần Ban lien lạc có sự thay đổi. Bà Lê Thị Lợi xin nghỉ vì điều kiện công tác, bà Nguyễn Thị Tích thay.

· Năm 2012: Gồm 10 ông bà:

1. Ông Phùng Quang Thanh – Trưởng ban, phụ trách chung

2. Bà Nguyễn Thị Tâm Toán – Phó ban, phụ trách tổ chức, TC, KH, HC.

3. Ông Nguyễn Hữu Na – Phó ban, phụ trách đối ngoại, TC, HC, tham quan DL

4. Ông Nguyễn Hữu Sơn – Phó Ban, phụ trách đối ngoại, hiếu hỷ, tham quan du lịch.

5. Ông Lưu Văn Sỏi - Ủy viên, phụ trách hiếu hỷ, tham quan du lịch.

6. Ông Nguyễn Khắc Kiên – Uy viên, phụ trách thăm hỏi, hiếu hỷ.

7. Bà Nguyễn Thị Ninh - Ủy viên, phụ trách thăm hỏi, hiếu hỷ, khuyến học

8. Ông Nguyễn Văn Đỉnh - Ủy viên, phụ trách thăm hỏi, hiếu hỷ.

9. Ông Lê Văn Mơ - Ủy viên, phụ trách hiếu hỷ, thăm hỏi, tham quan DL

10. Bà Nguyễn Thị Tích - Ủy viên, phụ trách thăm hỏi, hiếu hỷ, KH

2.Chia sẻ

                Một trong những mục đích của việc thành lập hội đồng hương là để gắn kết tình cảm quê hương, để động viên chia sẻ với nhau những vui buồn, để giúp đỡ lẫn nhau cùng nhau phát triển. Hơn 10 năm qua nhờ sự đồng thuận của tất cả hội viên, BLL đã hoàn thành tốt nhiệm vụ mà hội giao phó.

3. Đầu xuân gặp mặt

                Đầu xuân năm mới theo phong tục cổ truyền của dân tộc, BLL với sự giúp đỡ nhiệt tình của ông Phùng Quang Thanh, Ông Nguyễn Hữu Na, các thành viên cùng về tề tựu đông vui dự ngày gặp mặt đầu xuân. Lần thứ nhất tại tư gia ông Nguyễn Khắc Sáu, nhà 18 phố Kim Đồng. Lần 2 và lần 3 ở 260 phố Thụy Khê, Ba Đình. Từ năm 2003 ( lần thứ 4) đến nay tại Nhà khách Bộ Tổng tham mưu, số 1 Trấn Vũ bên Hồ Trúc Bạch. Năm sau đông vui hơn năm trước. Tính đến lần gặp mặt đầu xuân năm 2012 đã có trên 150 thành viên tham dự, đông gấp hơn 10 lần kỳ họp mặt thứ nhất.

                Đầu xuân gặp nhau tay bắt mặt mừng, chúc nhau sức khỏe, thành đạt. Thông báo cho nhau những thành công và cả những rủi ro, vui, buồn của bản thân, của gia đình để cùng cảm thông, chia sẻ. Sau những tíu tít chuyện trò, sau những mừng vui gặp gỡ, sau những vô tư xả bầu tâm sự… của mọi người qua một năm bận bịu với công việc, với cuộc sống là “ Chương trình nghị sự”. Thường thì buổi gặp mặt bắt đầu bằng việc tổ chức mừng thọ các cụ cao niên vào tuổi bảy, tám mươi… Xuân. Việc làm ân tình “ Lính già, già để tuổi cho” đã mang lại niềm vui và sự xúc động thật sự cho các cụ và gia đình cùng tất cả các hội viên, nhất là lớp trẻ. Tiếp sau là thông tin về sự đổi mới của đất nước, của quê hương. Phần này thường được ông Phùng Quang Thanh – Trưởng BLL, thông báo. Sau đó là những phát biểu tâm tình, là đóng góp ý kiến vào việc xây dựng và phát triển hội để hoạt động của hội ngày một phong phú hơn. Rồi cùng nhau chụp ảnh lưu niệm…. Kết thúc buổi gặp mặt là bữa cơm thân mật. Lại nâng cốc chúc mừng nhau. Lại dốc bầu tâm sự. Để “ Chén vui nhớ bữa hôm nay/ Chén mừng xin hẹn ngày này năm sau…”

c. Niềm vui nhân đôi

                Chăm lo đến thế hệ trẻ, động viên con cháu chăm ngoan học giỏi cũng là một trong những hoạt động trọng tâm của hội đồng hương. Qua danh sách các cháu là học sinh giỏi, các cháu đỗ các trường cao đẳng, đại học hang năm, lớp ông bà, cha chú hết sức tự hào. Nhiều cháu đạt học sinh giỏi các cấp nhiều năm liền, nhiều cháu đỗ vào các trường đại học danh tiếng làm rạng danh quê hương. Hơn 10 năm qua, BLL đã trao thưởng cho trên 100 cháu đạt danh hiệu Học sinh giỏi các cấp, trên 20 cháu đỗ vào các trường cao đẳng, đại học. Vì nhiều lý do chắc chắn đây không phải là con số đầy đủ. Có thể kể tên một số cháu đạt thành tích tiêu biểu như: Cháu Phùng Minh Phương con ông Phùng Quang Hiển – Giải Nhì môn Taekwondo toàn quốc năm 2002; cháu Nguyễn Thị Bích Tâm con bà Nguyễn Thị Tâm Toán- Giải Quả Cầu Vàng do Ngân hang Châu Á (HSBC) tổ chức năm 2008 tại Thành Phố Hồ Chí Minh và Hồng Kông, cháu Lưu Hồ Trung con ông Lưu Văn Năm – giải nhì môn hóa học lớp 12 toàn thành phố năm 2008…

                 Phần thưởng tuy không lớn nhưng nó thực sự là nguồn động viên cổ vũ rất lớn cho các cháu, giúp các cháu học tập và tu dưỡng ngày càng tốt hơn. Nó cũng không chỉ là niềm vui của các cháu mà còn là niềm vui nhân đôi của các bậc cha mẹ, ông bà, của tất cả hội viên vì lớp con cháu quả đã xứng danh là “ con hơn cha…”. Đó chính là niềm hạnh phúc, niềm tự hào của các bậc làm cha, làm mẹ. Bởi không có gì hạnh phúc bằng con cái trưởng thành, chăm ngoan, học giỏi. Cái đó tiền của, chức quyền đâu có mua được.

                Ngoài việc mừng vui, chia sẻ với các gia đình có con cháu đạt thành tích cao trong học tập, hội còn chia sẻ, chung vui với các gia đình hội viên nhân dịp dựng vợ, gả chồng cho con cái. Những dịp như vậy các hội viên lại có cơ hội gặp gỡ, thăm hỏi, chúc mừng nhau về sức khỏe, về công việc làm ăn, chúc cho nhau được mọi sự an bình, may mắn trong cuộc sống.

d. Nỗi buồn vợi nửa

               Mỗi khi hội viên ốm đau, bệnh tật, BLL đều thông báo cho các hội viên có điều kiện cùng đến tặng quà, động viên, thăm hỏi, sẻ chia. Mỗi khi hội viên hoặc tứ thân phụ mẫu qua đời, BLL và các hội viên đều đến phúng viếng, chia buồn. Những việc làm tình nghĩa này càng làm cho mối quan hệ giữa các hội viên thêm gắn bó, tình làng, nghĩa xóm của những người con xa quê càng đậm đà, thân thiết hơn.

d. Đi thăm đất nước

               Cuộc sống đâu chỉ cần “ bánh mì”, đâu chỉ cần có “ cơm ăn và áo mặc” mà còn cần có cả “ hoa hồng”, cần có cả những “ nụ hôn”. Đời sống ngày càng được cải thiện, giàu có lên thì những nhu cầu về đời sống tình thần cũng ngày một cao hơn. Đáp ứng nguyện vọng chung chính đáng đó, BLL hang năm thường tổ chức cho các hội viên đi nghỉ mát, đi tham quan những di tích lịch sử, những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú để thấy đất nước mình “ đâu cũng đẹp như tranh”, để từ đó thêm yêu đất nước mình hơn.

             Tuy chưa được thường xuyên và số lượng hội viên tham gia chưa nhiều, nhưng những kỳ đi tham quan, du lịch đã để lại những ấn tượng tốt đẹp. Qua những chuyến đi mọi người càng hiểu nhau hơn, thông cảm với nhau hơn. Sau những ngày nghỉ ám tình quê, chất lượng công việc càng tốt hơn. Những nơi đã đến trong những năm qua là: Tam Đảo ( Vĩnh Phúc); Suối Tiên, Thác Đa, Đền Thượng ( Ba Vì); Đồ Sơn ( Hải Phòng); Bãi Cháy ( Quảng Ninh) v.v…

4. Hướng về cội nguồn

            Người Thạch Đà dù có đi đến chân trời góc bể nào, dù ở cương vị công tác nào, dù làm công việc gì thì quê nhà vẫn đằm sâu trong trái tim, thì vẫn giữ được cái tình, cái nghĩa với quê hương, làng xóm. Người Thạch Đà xa quê dù thành đạt hay chưa thành đạt, lòng vẫn luôn mong muốn trở về để tri ân, để chia sẻ với quê hương tấm lòng, tình cảm của mình, để thể hiện cái thiện tâm của mình, để kính báo với tổ tiên, với dòng tộc, với bà con làng xóm rằng những người con xa quê muốn trở về để đóng góp một phần nhỏ bé của mình đối với quê hương, làng xóm. Trong những năm qua con em Thạch Đà đã đóng góp kinh phí và hiện vật vào việc đền ơn đáp nghĩa, tu bổ nghĩa trang, xây dựng đường xá. Trường học, tu bổ Đình, Chùa, Đền, Miếu… Một trong những nghĩa cử cao đẹp đền ơn đáp nghĩa là việc ông Phùng Quang Thanh, người con của làng, nay đã là vị Đại tướng anh hùng, vị Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng… vẫn không sao quyên được bạn bè một thưở cùng chăn trâu cắt cỏ, cùng học một lớp, cùng lên đường đánh Mỹ, đã nằm lại chiến trường. Trong 4 người bạn cùng trang lứa năm nào đã chiến đấu và anh dũng hy sinh ngoài mặt trận, ông và đồng đội đã lặn lội nhiều năm tìm được và đưa thi hài liệt sĩ Lưu Văn Đức về với đất mẹ quê hương. Còn 3 người nữa là Nguyễn Hữu Nghệ, Lưu Văn An, Đỗ Viết Quang đang nằm ở đâu, chắc lòng ông vẫn còn canh cánh chưa yên. Tin rằng, ông và đồng đội nhất định sẽ tìm được, sẽ đưa họ về với đất Mẹ.

               Ngoài việc đóng góp xây dựng quê hương, BLL đồng hương Thạch Đà còn lập ra quỹ “ Khuyến học, khuyến tài”, nhằm động viên khuyến khích con cháu ở quê hương chăm ngoan, học giỏi. Việc làm này đã nhận được sự đồng thuận của đảng ủy, UBND, của Nhà trường và nhân dân trong xã; được sự đồng tình và nhiệt thành tự nguyện đóng góp của các hội viên. Hàng năm, vào ngày tổng kết, BLL về tận trường trực tiếp trao thưởng cho các thầy cô và các cháu học sinh có thành tích giảng dạy và học tập xuất sắc nhất trong năm. Việc nhỏ nhưng nghĩa lớn. Quỹ “ khuyến học, khuyến tài” của đồng hương Thạch Đà đối với quê hương nhất định sẽ ngày càng có tác dụng tích cự đối với việc học tập và rèn luyện của con cháu nơi quê nhà. “ Trẻ em hôm nay, Thế giới ngày mai”, việc chăm lo cho các cháu, những chủ nhân tương lai của đất nước vừa là trách nhiệm vừa là nghĩa vụ thiêng liêng của những người con xa quê. BLL mog nhận được nhiều những tấm lòng hảo tâm của tất cả mọi người để cho hoạt động tình nghĩa này ngày thêm phong phú và hữu ích.

                Trong những hoạt động tri ân với quê hương có một việc làm hết sức có ý nghĩa và đã thành công tốt đẹp đó là việc đề nghị “ trả lại tên” cho ngôi trường cấp 2 giàu truyền thống, ngôi trường mang tên người chiến sĩ cách mạng kiên cường Phạm Hồng Thái, nơi mà bao thế hệ con em Thạch Đà đã học tập, lớn lên, trưởng thành dưới mái trường này. Việc đề nghị trả lại tên cho ngôi trường đúng vào dịp kỷ niệm Ngày nhà giáo Việt Nam 20/11, cũng là năm kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Trường cấp 2 Phạm Hồng Thái ( 1961 -2011) càng trở nên có ý nghĩa. Trong ngày lễ trọng đại đó, nhiều thầy cô và rất nhiều thế hệ học trò đã về dự, trong đó có người học trò ưu tú nhất: Cựu học sinh Phùng Quang Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Đại tướng, Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng, Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Thầy trò, bạn bè, tất cả đầu đã hai thứ tóc, gặp lại nhau mừng mừng, tủi tủi sau nửa thế kỷ xa cách. Mặc cho “ Tóc thầy, tóc bạn bạc phơ cả rồi”, nhưng cái tình, cái nghĩa thầy trò thì vẫn còn thanh xuân, vẫn tươi rói như xưa. Trong không khí trang trọng đó thầy Nguyễn Văn Can, nguyên Hiệu trưởng đầu tiên của trường và Đại tướng Phùng Quang Thanh, nguyên học sinh cũ của trường đã chính thức đề nghị với trường, với xã, với huyện về việc lấy lại tên cũ cho trường. Ý kiến đó đáp ứng đúng nguyện vọng của tất cả các thế hệ học sinh và do vậy đã được Nhà trường, xã, huyện đồng ý chấp thuận.

               Và bây giờ đây, trường THCS xã Thạch Đà lại được mang tên người chiến sĩ cách mạng kiên cường năm xưa: Trường THCS Phạm Hồng Thái ( theo quyết định số 2394/Q Đ –UBND ngày 25 tháng 4 năm 2012 của UBND huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội). Ngôi trường mà như một cựu học sinh của trường đã viết: “ Tên trường: Hồng Thái không quyên/ Như phù sa sữa mẹ hiền nuôi ta”.

                Hội đồng hương Thạch Đà thành lập mới được 15 năm. Còn nhiều dự định chưa thực hiện được song sự thành công lớn nhất là hội ngày càng đông vui, lớn mạnh. Bên cạnh lớp già đã nghỉ hưu còn có một lớp trẻ rất đông đảo đang công tác, làm việc với biết bao lo toan, bận rộn cũng đến với hội làm cho hội ngày càng đông vui và có những đóng góp tích cực, hữu ích. Hội cũng đón nhận được sự hưởng ứng của các thầy, các dâu, rể và các gia đình đã một thời giảng dạy, làm ăn sinh sống ở Thạch Đà tham gia.

              15 năm qua, thành phần tham gia hội ngày càng đa dạng, hoạt động của hội ngày càng phong phú, nó như chất keo gắn kết tình cảm mọi người lại với nhau thành một đại gia đình đồng hương Thạch Đà trên khắp mọi miền đất nước.

             Ban lien lạc xin chân thành cảm ơn các ông bà: Phùng Quang Thanh, Nguyễn Hữu Na, Nguyễn Hữu Sơn, Phùng Đình Đạt, Lê Văn Mơ, Phùng Viết Tân, Nguyễn Trung Kiên, Nguyễn Đức Giang, Trần Ngọc Thanh, Phùng Duy Mạnh Hùng, Lê Đức Điều, Lê Văn Bằng và nhiều người nữav.v… đã đóng góp công sức và tài chính, tạo điều kiện để hội hoạt động có hiệu quả đồng thời góp một phần nhỏ vào việc xây dựng quê hương.

Mong rằng tất cả những người con của T HS giỏi nhiều năm

              hạch Đà đang làm ăn sinh sống ở trên khắp nẻo đường Tổ quốc cùng về hội tụ, đúng hơn là về đây đoàn tụ để góp phần gắn kết tình cảm của những người con xa quê, để chung tay, góp sức xây dựng quê hương ngày một thêm giàu đẹp, để bồi đắp cho tình cảm quê hương ngày thêm nồng mặn, để HỒN QUÊ luôn ở trong trái tim mỗi người, luôn như biển rộng trời cao ôm ấp, vỗ về tâm hồn ta để tâm hồn ta luôn luôn được phấn chấn, vui tươi, yên bình, an lạc: “ Hồn quê biển rộng trời cao/ Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”.

5. Danh sách các cháu đạt thành tích xuất sắc trong học tập và tu dưỡng tiêu biểu nhiều năm đã được BLL đồng hương tuyên dương khen thưởng trong những năm qua.

STT
Họ và Tên
Thành tích
Con ông (bà)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21


22




23

Lê Tiến Trung
Nguyễn Thị Bích Tâm
Lưu Hồ Trung
Nguyễn Minh Đức
Nguyễn Đức Dũng
Nguyễn Thị Loan
Nguyễn Thị Kim Dung
Nguyễn Thị Huyền
Nguyễn Hữu Thành
Đào Thị Thương Huyền
Nguyễn Phương Thanh
Nguyễn Vân Anh
Lê Phương Linh
Lê Việt Hoàng
Lưu Tú Anh
Lưu Tuấn Hưng
Phùng Minh Trang
Lưu Lê Tuấn Đạt
Phùng Lan Phương
Phùng Thùy Dung
Phùng Minh Phương


Nguyễn Thi Bích Tâm




Lưu Hồ Trung
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
HS giỏi nhiều năm
Giải nhì Taekwondo Toàn quốc năm 2002
Giải Quả Cầu Vàng của Ngân hang Châu Á( HSBC) tổ chức tại TP HCM và Hông Kông
Giải nhì môn Hóa học lớp 12 TP Hà Nội năm 2008
Nguyễn Thị Tuyết Minh
Nguyễn Thị Tâm Toán
Lưu Văn Năm
Lê Thị Lợi
Lê Thị Lợi
Nguyễn Hữu Na
Nguyễn Hữu Na
Nguyễn Hữu Na
Nguyễn Hữu Na
Đào Bá Tráng
Nguyễn Thị Thanh Vân
Nguyễn Thị Thanh Vân
Lê Văn Mơ
Lê Văn Mơ
Lưu Văn Thịnh
Lưu Văn Thịnh
Nguyễn Thị Tích
Lê Thị Ích
Phùng Minh Ngiêm
Phùng Minh Nghiêm
Phùng Quang Hiển

Nguyễn Thị Tâm Toán




Lưu Văn Năm







Phần ba: QUÊ HƯƠNG LÀ DÒNG SỮA MẸ

LỜI TỰA

Quê hương là dòng sữa mẹ nuôi dưỡng tâm hồn ta, nuôi ta trưởng thành khôn lớn:

“ Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”

Chế Lan Viên

Xin trân trọng giới thiệu đôi “ điệu tâm hồn” của những người con Thạch Đà xa xứ nhớ về quê hương.



NHỮNG CÂU CA DAO VỀ THẠCH ĐÀ

1. Chợ Đợ có bà lang Cam,

Có cô đồng Thực chuyên làm dép quai.

Trẻ không toét mắt thối tai,

Già đi ra ngõ không ai vướng vào.

*

**

2. Đừng chê anh xấu, anh đen,

Anh ở bãi Đợ, anh quen dãi dâu.

Cái nón anh còn che đầu,

Cái áo đội đầu cho nên anh đen.

*

**

3. Trai kẻ Đợ, gái thôn Đoài

Quan trên, người dưới, không ai dám gần.

*

**

4. Làng Đợ có gò Năm Cây

Có chùa Bụt Mọc, gò Sây giữa đồng.

Ai qua cổng Sốc, cổng Đông,

Nhớ vào xóm Giếng, thăm ông Đống làng.

*

**

5. Bún bà Miễn, bánh bà Dần

Giò chả ông Sỹ, rau cần xóm Đông.

*

**

6. Giếng Thạch Đà vừa trong vừa mát,

Đường Thạch Đà lắm cát dễ đi.

Em có thương anh cách trở điều gì,

Mà còn e ngại không về cùng anh.

*

**



7. Hỡi cô thắt dải lưng xanh,

Có về làng Đợ với anh thì về.

Làng Đợ có cây bồ đề,

Có hoa thiên lý, có nghề tằm tơ.

*

**

8. Ao làng Đợ vừa trong vừa mát,

Đường làng Đợ lắm cát dễ đi.

Con gái làng Đợ óng ả làm chi,

Để cho anh cán bộ hết đi lại về?

Sưu tầm






VỀ THĂM QUÊ



Về thăm quê mẹ Thạch Đà

Cỏ đê nâng bước mượt mà thân thương…

Đầm sen soi bóng đưa hương,

Trời buông hoa nắng trái đường ta qua.



Tiếng chim lảnh lót hát ca,

Chia vui với đứa con xa trở về,

Gió đưa kẽo kẹt hang tre,

Như là tiếng võng đêm hè mẹ ru.



Gợi lòng ta, nhớ ngày xưa,

Chăn trâu, cắt cỏ nắng mưa dãi dầu.

Nón mẹ nhường con đội đầu,

Tấm áo mẹ vá bắc cầu tuổi thơ.



Vượt nghèo, đi sớm về trưa,

Vắt mồ hôi chảy dòng thơ xây đời…

Nay vui gặp lại bao người,

Nhìn nhau CÙNG NỞ NỤ CƯỜI MỪNG QUÊ



Tác giả: Nguyễn Thị Đông

in trong THẠCH ĐÀ –Quê hương yêu dấu







TÌNH QUÊ



Anh em sinh ở Thạch Đà,

Đã đi công tác xa nhà nhiều năm.

Ở đâu luôn nhớ tổ tong,

Quê hương chum khế ngọt không gì bằng.



Đến đây họp hội đồng hương,

Tình cảm thân thiết như trong một nhà.

Kỷ niệm của những năm qua,

Đem ra ôn lại thật là rất vui.



Quê hương tha thiết yêu ơi!

Bao nhiêu kỷ niệm của thời ấu thơ.

Nhớ trong trí óc không mờ,

Ngàn năm vẫn thấy tình xưa ngạt ngào.



Tác giả Phùng Đông in trong

THẠCH ĐÀ – Quê hương yêu dấu.












CÂY GẠO LÀNG MÌNH

“ Bao giờ cho đến tháng ba

Hoa gạo rụng xuống thì tra hạt vừng”

( Ca dao)

Thân cao vút tận trời

Rễ cắm sâu lòng đất

Năm cánh hồng khoe sắc

Cháy đỏ trời tháng Ba.



Gốc xù xì u biếu

Như vai mẹ, tay cha

Dãi dầu cùng năm tháng

Mặc gió táp mưa sa.



Hiên ngang như dũng sĩ

Đứng canh trời bao la

Ngọn “ hải đăng” dẫn lối

Đưa ta về quê nhà…



Cây gạo già cổ thụ

Tán biếc che Đền Bà

Bao người dừng chân nghỉ

Quán bà Yên hiền hòa.



Lão nông ngồi rít thuốc

Nhả khói bay mịt mù

Tợp ngụm nước vối nóng

Mắt mơ màng xa xăm…



Em gái ngồi hong tóc

Đón gió đồng chạy qua

Chợt gặp hương bồ kết

Thoang thoảng bay la đà.



“ Cụ” gạo không còn nữa

( Chắc là bay về trời!)

Bên Đền cây gạo “ trẻ”

Lại đỏ trời tháng Ba…



Tác giả Phùng Ngọc Liên in trong

THẠCH ĐÀ- Quê hương yêu dấu











ĐÌNH QUÊ

Uy nghi, trầm tĩnh hướng Đông Nam

Mái cổ rêu phong, cảnh hoang tàn

Con dân Kẻ Đợ thành tâm dựng

Thờ đức Thành Hoàng cứu dân an



Ơn Đức Thành hoàng – lớp cháu con

Thiện tâm vun đắp lại giang san

Nhân quả muôn đời còn ghi nhớ

Muôn họ quê nhà được bình an.



Tác giả: Lưu Văn Nam in trong

THẠCH ĐÀ-Quê hương yêu dấu




TẮM BIỂN HẠ LONG



Anh vào bãi tắm Hạ Long

Sáng nay mặt biển xanh trong lạ kỳ.

Bao năm xa cách biệt ly,

Giờ đây gặp lại nói gì cho nhau

Thỏa lòng mong đợi bấy lâu,

Anh ôm biển, biển ôm sâu vào lòng.



Tác giả: Lưu Văn Năm in trong

THẠCH ĐÀ – Quê hương yêu dấu.








THĂM HANG SỬNG SỐT HẠ LONG



Đồng hương quê cũ Thạch Đà,

Biển khơi hội tụ vượt qua song trào.

Ra thăm vùng vịnh xem sao?

Vào hang Sửng Sốt ước ao bao ngày.

Sửng sốt ơi mình tới đây,

Xoa đầu chú Cóc đắp xây lòng thành.

Niềm tin tái tạo trong anh,

Hương thơm giếng nước ngát quanh chúng mình.

Thêm người làng xóm nghĩa tình,

Cầm tay nay lại hiểu mình hiểu ta.

Dốc cao rồi sẽ vượt qua,

Keo sơn nghĩa cả Thạch Đà ta ơi.



Tác giả: Lưu Văn Năm in trong

THẠCH ĐÀ – Quê hương yêu dấu




TÌNH QUÊ HƯƠNG



“Bầu ơi thương lấy bí cùng,

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”

Về đây trong xóm ngoài làng

Keo sơn đùm bọc ta càng thương nhau.



Chia vui khi có nguồn vui,

Sẻ buồn, lòng những ngậm ngùi xot xa.

Coi nhau như thể người nhà,

Dù gì chăng nữa vẫn là đồng hương.



Môi hở, răng lạnh lẽ thường,

Cùng nhau đùm bọc qua đường ta đi.



Tác giả: Lưu Văn Năm in trong

THẠCH ĐÀ – Quê hương yêu dấu.




QUÊ HƯƠNG CỘI NGUỒN



Dân tộc mình từ ngàn xưa vẫn thế

Lúc xa quê sao nhớ cửa, nhớ nhà

Mai con cháu sẽ là người kế tục

Làm yên lòng tổ phụ lúc đi xa



Ta thường nói: “ Của ai riêng phận nấy”!

Đi làm ăn nơi đất khách quê người

Bao nhọc nhằn, bao khó khăn vất vả

Quê hương mình nhớ quá Thạch Đà ơi!



Xưa cực khổ phải đi làm khuya sớm

Nay đổi thay đến từng xóm, từng nhà

Làng quê đã có điện, đường, trường, trạm

Nhà cao tầng, sơn mới, tường hoa.



Thạch Đà đã có bao nhiêu người thợ

Đi khắp nơi xây dựng những ngôi nhà

Những biệt thự thật nguy nga đồ sộ

Những đài sen rực rỡ muôn hoa.



Đảng bộ được sạch trong, vững mạnh

Đài truyền thanh tiếng nói vang xa

Thông báo mọi chủ trương, đường lối

Đến toàn dân, trai gái, trẻ già.



Chùa Quang Lộc do nhân dân đóng góp

Trường học quê đều đạt chuẩn Quốc gia

Những hộ nghèo nay còn rất ít

Niềm tự hào của con cháu đi xa.



Quê mình đã có ba liệt sĩ

Và rất nhiều thạc sĩ, cử nhân

Ngày càng nhiều cháu con vào đại học

Đưa Thạch Đà tiến mạnh, tiến nhanh



Thạch Đà một vùng quê cách mạng

Đã sinh ra vị đại tướng anh hùng

Những tướng tá, những sĩ quan dũng cảm

Là niềm vui kiêu hãnh của quê nhà



Thạch Đà đã khang trang, sạch đẹp

Những cửa hang, cửa hiệu rất đông vui

Những tiếng hát tiếng cười trong trẻo quá

Những cây xanh làm đẹp mãi cây đời



Là người con của Thạch Đà yêu dấu

Viết bài thơ để nhớ mãi cội nguồn

Nhắn nhủ cháu con cố công xây dựng

Cho quê mình mãi mãi đẹp giàu hơn



Tác giả: Trần Ngọc Thạch in trong

THẠCH ĐÀ –Quê hương yêu dấu




ÂM VANG QUÊ TÔI

Luôn nhớ về quê là tâm trạng của những người con Thạch Đà xa quê. Tôi cũng vậy, vì tôi sinh ra và lớn lên từ dòng sữa ngọt ngào nơi đất mẹ Thạch Đà tôi. Thạch Đà luôn âm vang trong tâm hồn tôi.



Thạch Đà đó có bốn thôn,

Trong làng, ngoài bãi như con một nhà.

Quê tôi có tự ngàn xa,

Thân thương từ bãi lan qua trong đồng.

Hoa gạo đỏ rực Đền Ngoài,

Quang Lộc Tự đổ chuông dài canh năm.

Lượn cong cong mái đình làng,

Nghiêng nghiêng bóng cả cây bang cổ xưa.

Xôn xao trò nhỏ nô đùa,

Tiếng giao pi póp kem ơ, đầu làng.

Quê tôi là chốn địa đàng,

Cho dù phiêu bạt mấy phương vẫn về.

Ra đi giữ trọn lời thề,

Khi giành chiến thắng mới về quê hương.

Vượt bao nguy hiểm khôn lường,

Xông pha trên khắp dặn đường nổi danh.

Hoan hô tướng Phùng Quang Thanh,

Anh hùng quân đội rạng danh Thạch Đà

Lịch sử là bản hùng ca,

Ngàn sau vang mãi Thạch Đà quê tôi.



Tác giả: Phùng Minh Thơm in trong

THẠCH ĐÀ – Quê hương yêu dấu






QUÊ MẸ

Cất tiếng chào đời

Đã sáu mươi năm

Chưa lúc nào nguôi nhớ về quê mẹ!



Nơi ấy:

Dòng song Hồng đỏ nặng phù sa

Bãi dâu xanh ngắt

Ruộng đồng mỏi cánh cò bay…

Nơi ấy đất lành

Người muôn phương về xây tổ ấm

Xóm làng yên vui gia đình hòa thuận

Cháu con hiền tài rạng rỡ non song

Quê mẹ yêu thương thắm thiết vô cùng!



Quê hương ơi!

Con đi xa luôn nhớ quê, nhớ mẹ

Nhớ những ngày nắng lửa, mưa dông

Một nắng hai sương mẹ lo lắng tảo tần

Nuôi dạy cháu con mong ngày khôn lớn…



Thời gian trôi như bóng câu qua cửa

Mái đầu xanh nay đã pha sương

Con vẫn đi trên những nẻo đường

Từng bước trông quê mình đổi mới

Đường bê tong thay con đường lầy lội

Nhà cao tầng thay mái nhà gianh

Trẻ đến trường vang tiếng học hành

Già vui hội áo quần rực rỡ…



Mẹ! Quê hương là trường ca muôn thưở

Lung linh, lung linh tỏa sáng đời con.



Tác giả: Phùng Thị Thực in trong

THẠCH ĐÀ- Quê hương yêu dấu




NHỚ QUÊ HƯƠNG

Thân tặng Hội ĐH Thạch Đà tại Hà Nội



Quê tôi đó Thạch Đà yêu dấu

Bao kỉ niệm thời thơ ấu còn đây

Mái trường Hồng Thái xanh cây

Xanh bao kỷ niệm thơ ngây học trò

Nhớ thầy bài giảng hăng say

Nhớ bạn vui những nhảy dây đá cầu

Nhớ lần gặt lúa, bắt sâu

Măng non Hợp tác đi đầu giúp dân

Nhớ bao kỷ niệm xa gần

Cây đa, bến nước muôn lần không quên.

Nhớ cánh đồng đẹp bao la

Nhớ dòng song đỏ phù sa tháng ngày

Nhớ mái đình xưa, hai con voi đá

Nhớ chùa Bụt Mọc thật là cổ xưa

Nhớ mái đền nghiêng trên triền đê êm ả

Nhớ tất cả ơn cha mẹ tảo tần

Nuôi em khôn lớn trưởng thành

Nhớ tình làng, nghĩa xóm dài lâu

Quê hương nghĩa nặng tình sâu

Dù đi bất cứ nơi đâu

Lòng tôi vẫn nhớ quê hương Thạch Đà





Tác giả: Nguyễn Thị Tích in trong

THẠCH ĐÀ – Quê hương yêu dấu




KÝ ỨC MIỀN QUÊ

Thân tặng hội đồng hương Thạch Đà tại Hà Nội



Thạch Đà quê ta

Bên song Hồng đỏ nặng phù sa

Nơi tôi sinh ra

Nơi mẹ, cha nuôi ta khôn lớn

Nơi an hem còn mãi thương yêu

Nơi tình thân gắn bó sớm chiều

Bao kỉ niệm nhớ mãi, nhớ thật nhiều

Kìa, bên triền đê yên ả

Ngôi đền cao bóng cả có cây gạo đứng bên

Gọi lũ trẻ chúng tôi chạy đến như tên

Để nhặt hoa mỗi mùa hoa rụng xuống

Mùa nước lên, chao ôi mơ mộng

Muốn ngắm nhìn con nước mỗi chiều

Muốn bơi thuyền, muốn ước bao nhiêu

Chẳng biêt rằng nước lên làm bao người khổ.

Mái trường năm xưa,

Nơi cất giữ bao kỉ niệm tháng ngày

Nơi học trò siêng năng bên bài vở

Thi nhau học tập làm vui lòng cha mẹ, thầy cô

Những kí ức không khi nào tôi quên được.

Cây đa, mái đình

Có hai chú voi đá rất xinh.

Bên cửa đình tôn nghiêm

Thời cấp một chúng tôi từng ngồi học

Tưng nô đùa muốn được cưỡi voi

Đến cấp hai tưởng đã lớn rồi

Vẫn vui chơi nô đùa chạy nhảy,

Trên sân trường Hồng Thái rợp bóng cây

Cây xà cừ nhue vẫn còn đây

Bao kỉ niệm chẳng bao giờ quên được

Kìa chùa Bụt Mọc

Cứ mỗi lần đi học ngang qua

Bọn trẻ chúng tôi

Lại vội mút ngón tay vì lỡ chỉ trỏ.

Để tin rằng không bị sự trừng phạt của thần linh?

Sau này, khi qua tuổi học sinh

Nghĩ đến điều đó,

Lại cười vui vì sự ngây thơ

Nghe truyền lại không biết từ bao giờ?

Mà tin thật không nghi ngờ gì cả

Đức tin của trẻ thơ thật lạ!

Luôn trong sáng như hạt sưng mai

Quê tôi đó Thạch Đà đẹp quá!

Đẹp ân tình sâu nặng với quê.



Tác giả: Nguyễn Thị Tích in trong

Thạch Đà Quê hương dấu yêu



QUÊ TÔI

Thân tặng hội đồng hương Thạch Đà tại Hà Nội



Nơi tôi sinh ra

Thạch Đà yêu dấu.

Suốt thời thơ ấu

Mẹ, cha yêu thương

Thầy cô chỉ đường

Bè bạn mến thương.

Tung tăng đến trường

Học bao điều lạ

Phấn đấu tất cả

Cho một tương lai

Vẻ vang ngày mai

Vui lòng cha mẹ

Từ thời thơ trẻ

Đến lúc trưởng thành

Khi xa quê hương

Trên mọi nẻo đường

Mưu sinh cuộc sống

Lòng luôn vấn vương

Một niềm mến thương

Quê hương là bến

Cho thuyền ta về



Tác giả: Nguyễn Thị Tích in trong

THẠCH ĐÀ-Quê hương yêu dấu



ĐỒNG HƯƠNG

Thân tặng hội đồng hương Thạch Đà



Dù có đi ngược về xuôi,

Lòng tôi luôn nhớ không nguôi Thạch Đà

Đồng hương tình cảm thiết tha,

Sum vầy như thể một nhà nơi đây.

Xa quê luôn nhớ những ngày,

Mẹ cha chăm sóc hôm nay trưởng thành.

Mỗi năm Tết đến Xuân lành,

Đồng hương gặp mặt chị, anh vui cười,

Ôn chuyện cũ, nhớ người xưa,

Nhớ bao kỉ niệm như mưa mùa hè.

Cùng gặp mặt bàn nhau việc nghĩa,

Góp chút tình tôn tạo quê hương.

Xây Đình, chùa, yêu thương người khó,

Để cùng nhau gắn bó tình quê.

Xa quê, nhưng vẫn nhớ về,

Quê hương yêu dấu lời thề sắt son.

Nếu là con của Thạch Đà yêu dấu,

Nguyện cùng nhau gắn bó từ đây.

Anh em góp sức dựng xây,

Tình thân đoàn kết mai ngày vui hơn.



Tác giả: Nguyễn Thị Tích in trong THẠCH ĐÀ – Quê hương yêu dấu



HỒN QUÊ



Hồn quê trong tiếng sáo diều,

Mênh mang giữa một khoảng chiều chơi vơi.

Hồn quê trong nước giếng khơi,

Sóng xao gương mặt rạng ngời gái quê

Hồn quê trong dải yếm thề,

Bắc cầu song sánh bùa mê sân chùa.



Hồn quê như thực, như mơ

Cây đa, bến nước bây giờ còn không?



Tác giả: Nguyễn Thị Tâm Toán in trong THẠCH ĐÀ – Quê hương yêu dấu




QUÊ TÔI



Quê tôi mát đất phù sa,

Đồng quê ngô lúa mượt mà lên xanh.

Xóm làng vang tiếng truyền thanh,

Sớm trưa tiếng hát trong lành ngân nga.

Dù đi xa vắng quê nhà,

Mà lòng vẫn nhớ thiết tha ân tình.

Nhớ hang bóng điện lung linh,

Nhớ cây cổ thụ sân đình quê ta.

Nhớ bài quan họ dân ca,

Mỗi khi xuân lộc thắm hoa cười,

Muôn hoa đua nở đất trời bao la.

Nhớ về thăm xa Thạch Đà,

Vui câu lạc bộ lời ca ngọt ngào.


Tác giả: Lê Thanh Vân in trong THẠCH ĐÀ- Quê hương yêu dấu



NHÀ THƠ NGÂN VỊNH

Ngân Vịnh tên thật là Phùng Ngân Vịnh – sinh năm 1942, quê Thạch Đà – Mê Linh hiện đang sinh sống ở Đà Nẵng.

Những năm đầu của thập kỷ 60 thế kỷ XX, Ngân Vịnh là lính Sư đoàn 2 Quân Giải phóng Khu V, chiến đấu ở chiến trường Quảng Nam, trực tiếp tham gia trận Ba Gia – Vạn Tường mùa hè năm 1965, đặt một mốc lịch sử khẳng định sự thất bại của “ Chiến lược chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - ngụy. Năm 1964 Ngân Vịnh làm Biên tập viên Tạp chí Văn nghệ QGP Trung Trung Bộ. Năm 1984 về hưu với cấp bậc đại úy.

Đến nay Ngân Vịnh đã có 8 tập thơ in riêng. Đã từng đoạt giải Nhì cuộc thi thơ báo VNQ Đ năm 1984, giải Nhì ( không có giải Nhất) cuộc thi thơ Báo Phụ nữ năm 1994, và nhiều giải thưởng khác.

Xin trân trọng giới thiệu một số bài thơ mang nặng tình quê hương của Ngân Vịnh.





MUÔN THỦA LÀNG QUÊ



Thạch Đà muôn thủa làng quê

Bước chân xa – bước chân về một nơi

Nhìn hoa dâm bụt bồi hồi

Nắng vương sắc đỏ nhớ lời mẹ ru



Làng quê tôi gặp tuổi thơ

Cánh cổng tre khép sương mờ bờ ao

Bìm leo giậu đổ khi nào

Quê nghèo nghe ngọn gió chao chát buồn



Bến song cô độc cánh buồm

Bây giờ tôi mới biết thương con đò

Thương quê quần vải chéo go

Đồng Chằm đỉa đói, thân cò dầm mưa



Làng quê trái khế vẫn chua

Măng tre vẫn nảy ngày xưa vẫn còn

Tình người qua miếng trầu ngon

Vầng trăng mờ tỏ tiếng con trẻ cười



Chiều chơi vơi trái sung rơi

Một thời quên lãng khiến tôi sững sờ!.



Tác giả nhà thơ: Ngân Vịnh in trong THẠCH ĐÀ – Quê hương yêu dấu




PHÚC YÊN NGÀY NÀO



Giăng giăng khói nắng sương đồi

Phố lèo tèo, phố tự hồi nảo nao

Liu riu vài quán thuốc lào

Vài con đường đá bước sào sạo trưa

Vài ngôi nhà cũ lưa thưa

Đá ong rỗ mặt tiếng mưa gõ buồn



Mặt tôi soi mặt quê hương

Mười phương chín hướng lòng thương quê nghèo

Mảnh trời xưa vẫn trong veo

Tôi đèo bòng gió – gió đèo bòng tôi



Phúc Yên phố - Phúc Yên đồi

Chân mây tóc cỏ lá rơi bóng gầy

Cái muôn đời vẫn đâu đây

Cánh chim hạt bụi tháng ngày đan qua.



Tác giả nhà thơ: Ngân Vịnh in trong THẠCH ĐÀ – Quê hương yêu dấu





ĐÊM QUÊ


Mẹ cha khuất núi cả rồi

Một đèn một bóng ta ngồi với đêm

Bần thần gió lọt giai phên

Bờ vai lành lạnh ngoài thềm ướt sương



Mọt kêu chiếu mốc mành buông

Nhìn đâu cũng thấy nỗi buồn ngày xa

Canh khuya đêm vỡ tiếng gà

Chập chờn bóng dáng mẹ cha đi về



Lòng bùi ngùi nhớ đêm quê

Đăm đăm mắt ngó triền đê trăng gầy

Ngôi nhà trống vắng lâu nay

Đóm tre chẻ nắng mỏng điếu cày bỏ không.

Tác giả nhà thơ: Ngân Vịnh in trong THẠCH ĐÀ – Quê hương yêu dấu




NGÕ LÀNG



Ngõ làng bùn đất lấm rơm

Cho ta câu hát thằng Bờm quạt mo

Tre pheo gầy guộc cánh cò

Có bao trông đợi con đò bến sông



Ngõ làng lá duối ngọn vông

Mẹ ta khuất núi mùi đồng không đi

Chiều sương khói nhạt cành si

Chạnh niềm thôn sã có chị nợ nần



Ngày xa nghe cứ bần thần

Dường như giọt nắng dấu chân gọi về.



Tác giả nhà thơ: Ngân Vịnh in trong THẠCH ĐÀ – Quê hương yêu dấu




CHỐN XƯA



Chốn xưa vài mảnh mây bay

Dải đồng vài ngọn heo may thổi vàng

Thời gian dấm dứt thời gian

Vỡ đôi hạt cỏ tro tàn lá rơi



Mê Linh lặng tiếng im hơi

Mẹ ta về đất ta hồi biệt xa

Mưa xanh chồi quýt đầu nhà

Nắng hong rơm rạ bãi xa, đồng gần



Ao bùn đen trắng ngó cần

Để ta khôn dại bước chân núi đồi

Hồn ta trong giậu mùng tơi

Hai đầu guốc võng buộc lời mẹ ru



Góc vườn ẩn giật mùa thu

Hương chiều ai ải đồng xu gạch vùi

Còn chăng kỷ niệm ngậm ngùi

Câu Sa Mạc cũ nếm mùi can qua



Tiếng chuông chùa đuổi theo ta

Bàn tay ái ngại bờ hoa bim bìm







VỀ QUÊ

Nắng thau dờn dợn đường quê

Mùa sương cỏ lụi bờ đê gió gầy

Lòng tôi bạc lá tre bay

Ngõ mòn giấu bóng, vòm cây giấu lời



Tường rêu nhà cũ long vôi

Nửa tàu chuối đỏ, nửa trời sang đông

Mây hoàng hôn khói bến sông

Tuổi khi tóc rụng còn trong nỗi gì



Chim ngoài bãi gọi chiều đi

Ngày ly biệt tháng biệt ly vô hình

Thảo thơm trở lại đời mình

Cọng rơm hương cốm mái đình cây đa



Lời ru mảnh sáng xưa xa

Để buồn để nhớ thương và để quên

Đèn chong ngọn lửa láng giềng

Ánh trăng gốc gạo gò nghiêng phương nào



Lòng tôi không có giậu rào

Nghe hoa súng tím bờ ao nở ngày.





LÀNG QUÊ KHUẤT PHỐ



Bên bồi bên lở vẫn sông

Vẫn ngày quang thúng gánh gồng lệch vai

Còn đây ngày tháng trong tôi

Gió cào mái rạ rối bời hạt mưa



Làng quê nhạt muối khú dưa

Lênh loang đôi tiếng chuông chùa chiều buông

Ngõ làng lấm láp rạ rơm

Buộc tôi vào ngọn khói thơm mùi đồng



Tuổi thơ còn chút ấm nồng

Cầm tay miếng bánh đa phồng chợ quê

Nắng vàng cơi nẻo chim về

Bông hoa gạo rụng bờ đê cỏ già



Nỗi buồn dằng dặc ngày xa

Nụ cười đầy nón mẹ qua sân đình

Tôi gom tất cả cho mình

Cả điều phiền muộn vô tình không hay



Đêm mòn theo tiếng cối xay

Rau răm cay, ngọn cải cay phận người

Làng quê nào có nói lời

Mà tôi thấp thỏm đứng ngồi gì đâu




THĂM MỘ MẸ



Nắng chang chang trở lại mùa

Hoa râm bụt nở đỏ bờ giậu xanh

Bước con trời đất chông chênh

Đến bên mộ mẹ một mình nằm đây



Cỏ trên nấm đất gió lay

Bao nhiêu tháng, bao nhiêu ngày trôi qua

Bóng hình mẹ chẳng phôi pha

Tim con ghi tạc đường xa dặm dài



Lòng con cùng nén nhang này

Nhớ về mẹ một phút giây xa mờ

Đáp đền lại giọt lệ khô

Tháng năm biền biệt ngóng chờ tin con



Một bia đá nhỏ khắc tên

Phần đời mẹ ở lsij trên cánh đồng

Quanh đây phảng phất hương hồn

Chỉ cho con biết mẹ còn hôm mai



Vấn khăn tròn mái tóc dài

Miếng trầu môi đỏ nụ cười răng đen.





BÊN MỘ BỐ



Bố nằm trong mộ âm thầm

Chỉ còn có cỏ là gần bố thôi

Dại khôn trả lại cõi người

Cả lời vàng đá, cả lời trăng hoa



Nợ nần tay trắng cho qua

Một mình với mảnh trăng tà nghỉ ngơi

Quên đi thiên hạ chợ trời

Hạt mưa tiếng sấm nghiêng rơi ngõ làng

Mùa thu qua, mùa đông sang

Chẳng còn gì để vội vàng với ai



Cúi đầu trước ngọn cỏ may

Mắt cay ngọn khói nhang bay lẻ chiều






CÕI LỤC BÁT



Dặm dài khói núi sông sương

Cánh chim nẻo gió, yêu thương nẻo người

Dặm dài trăng sáng cỏ lơi

Ổ rơm miếu mạo vọng lời mẹ xưa

Dặm dài gội nắng, dầm mưa

Ba chìm bẩy nổi vẫn chưa hết đời



Cảo thơm ngồi giở mình thôi

Trăm năm ở phía chân trời cỏ non






ĐIỆU VẦN LỤC BÁT



Điệu vần lục bát cũ xưa

Cũ xưa như thể cơn mưa phủ đầu

Mẹ tôi tóc vấu, áo nâu

Tình tình chiếc nón qua cầu gió bay.



Điệu vần lục bát mê say

Thậm thình cối gạo tiếng chày giã sương

Đất lề, quê thói nhớ thương

Đi ngơ, về ngẩn nẻo đường lời ru



Điệu vần lục bát tương tư

Em mười bảy tuổi còn dư mấy ngày

Ngang môi một nhánh sông gầy

Thời gian gió bụi cát bay dặm đèo



Điệu vần lục bát trong veo

Hồn như ngói lợp trăng treo mái đình

Câu thơ đứng lại một mình

Lá mềm nắng lọc thình lình yêu thương.





BỖNG DƯNG


Bỗng dưng trời lắc thắc mưa

Nghe trong ngõ cụt chật trưa tiếng gà



Bỗng dưng mình hát í a

Mỗi người thiếu phụ đi qua mỉm cười

Bỗng dưng nhặt chiếc là rơi

Nào hay trán vã mồ hôi lúc nào



Bỗng dưng lòng thấy nao nao

Ngôi nhà trống vắng hết vào lại ra



Bỗng dưng đi gọi người ta

Tình ơi ... cái lá bàng già tím khô.




NGÀY TÓC MUỐI TIÊU



Cái ngày tóc chấm muối tiêu

Mới tìm thấy bến bờ yêu thực lòng

Em không là mớ bòng bong

Dây mơ dễ má cột tròng cổ tôi



Em là cái lá trầu hôi

Nợ duyên đã đến quệt vôi cay nồng

Tình em lửa ấm than hồng

Kéo tôi ra khỏi mùa đông dại khờ



Một thời yêu cái vu vơ

Đem thân hứng gió che mưa cho người

Để rồi mới biết chợ trời

Mới hay đen bạc cuộc đời phù du.









TỰ TÌNH



Đời còn tuổi thơ nhặt lá đa

Đời còn bước nắng đi qua sân đình

Chả ai trọng, chả ai khinh

Phận người hoa cải, phận mình rau răm



Miếng trầu mẹ buộc vào khăn

Thời gian dường chẳng khác năm tháng nào

Trúc xinh, sông vẫn ba đào

Khuya vầng trăng mọc cầu ao bập bềnh



Chân qua cầu ván ngày vênh

Lòng heo may thổi nhẹ tênh miền trời

Cỏ hoa lụi sắp lên chồi

Về bên rơm rạ ta hồi sinh ta.




CHIỀU CHỈ MÌNH TÔI BIẾT



Ngõ tre rét ngọn mưa bay

Không ai chờ đợi chiều nay tôi về

Nghe ngờm ngợp gió bờ đê

Lõm vai mờ khói làng quê nhạt ngày



Mùa đông cây khẳng khiu cây

Kiếm tìm hơi ấm bàn tay kiếm tìm

Giậu nghiêng có thể nào tin

Trời ơi sao lá bìm vẫn xanh



Mặt sân nhà rỗ giọt gianh

Lối xưa cổng đất như dành cho tôi

Cuộc đời tóc đã bạc rồi

Lặng nghe vài trái sung rơi cũng buồn



Dường như trong bảng lảng sương

Nửa vầng trăng ở trên khuôn mặt mình

Ngày đi ngày đến lặng thinh

Buộc tôi những bóng hình không đâu.








ĐÔI ĐIỀU BÀY TỎ



Tôi là người mắc nợ tôi

Nợ con sông đỏ, nợ đồi cỏ xanh

Nợ người kiếp trước mong manh

Buồn vui năm tháng cũng thành trả vay



Hồn tôi như gió heo may

Bờ vai lất phất mưa bay dải đồng

Tôi mê ngọn lửa mùa đông

Và em bẩy sắc cầu vồng lặng im



Tiêu dao sợi chỉ luồn kim

Tôi yêu cuộc sống – tôi tin con người

Văn chương chẳng có lãi lời

Câu thơ tự nhủ thì thôi còn mình



Trái tim gõ mõ cầu kinh

Xin trời xin đất chút tình nhân gian.









TUỔI NĂM NHĂM



Nhấp môi chén rượi bên thềm

Tuổi năm nhăm tóc bạc chen mái đầu

Một mình đối mặt canh thâu

Nào ai dám nói bấy lâu trải đời.








QUY LUẬT

Khôn ngoan của người bạc đầu

Tìm nơi suối cạn tránh cầu chon von

Những toan tính cuộc vuông tròn

Bước chân chậm – khổ những hòn đá rêu.








BỜ AO



Ngày hanh hao ngẩn nước vơi

Cành sung gặp lại nỗi người đi xa

Gọi tìm mưa tạnh ngày qua

Gọi tìm mùi khói ùa ra cánh đồng



Bờ ao ngõ xóm mùa đông

Bùn khô còn dấu chân không dép giày

Trời hay cơn gió heo may

Thổi xô những cánh bèo gầy xác xơ



Ta nghe vẫn có ai chờ

Con chuồn chuồn ngủ bụi bờ như xưa.




TỰ CẢM



ào tre gai

Cuối mùa thoảng một chút hương

Khói nhòa chiều khói con đường cát bay

Đò ngang không trở hết ngày

Dấu chân mòn bến sông gầy gầy thêm



Gió đi lướt ngọn lá mềm

Chuông chùa từng giọt rơi trên ngõ nhà

Cơm hàng cháo chợ vắng xa

Thắt lưng con cúi, tiếng gà nắng vương



Xa quê chừng bấy năm trường

Lòng xây bằng khói bằng sương kiếp nào

Có ai gọi phía bờ ao

Ngày buồn vẫn ở sau ...







VÀO NGÔI CHÙA LÀNG



Đêm hồng

Nến thắp một đôi

Theo lưng ong

Bước vào ngôi chùa làng

Cúi đầu lạy Phật tổ ban

Cho con mắt nhạn đừng tàn nét hoa

Chuông đồng

Mõ gỗ

Ngẩn ngơ

Khói nhang mờ

Tiếng nam mô ngập ngừng.









NÀY EM THỊ MẦU



Này em – Em Thị Mầu ơi

Biết không cái lẳng lơ giời cho em

Trong thiên hạ khối người thèm

Khối người cũng muốn theo em lên chùa



Này em mắt cứ long đong

Cứ môi trầu thắm bỏ bùa cho sư

Mấy khi đời được tương tư

Vầng trăng lẻ giữ khư khư làm gì



Tao thì đỏ suộm lối đi

Tuổi thì hớn, lòng thì ngả nghiêng

Có là chỉ cái chính chuyên

Mà đem thân phận buộc duyên nợ vào



Bước em đi đến nơi nào

Cũng nghe đôi dải yếm đào xổ tung

Có gì đâu phải ngượng ngùng

Tình yêu ngọn lửa cháy bùng bẩy nay



Thị Mầu em vắng một ngày

Đàn ông trên thế gian này ra sao?








LÀNG QUÊ



Làng quê muôn thủa làng quê

Bước chân xa- bước chân về một nơi

Nhìn hoa râm bụt bồi hồi

Nắng vương sắc đỏ nhớ lời mẹ ru



Làng quê tôi gặp tuổi thơ

Cánh cổng tre khép sương mờ bờ ao

Bìm leo giậu đổ khi nào

Quê nghèo nghe nhọn gió chao chát buồn



Bền sông cô độc cánh buồm

Bây giờ tôi mới biết thương con đò

Thương quê quần vải chéo go

Cánh đòng đỉa đói, thân cò dầm mưa



Làng quê trái khế vẫn chua

Măng tre vẫn nảy ngày xưa vẫn còn

Tình người qua miếng trầu ngon

Vầng trăng mờ tỏ tiếng con trẻ cười



Chiêu chơi vơi trái sung rơi

Một thời quên lãng khiến tôi sững sờ.





CẢNH NGỘ



Em ngồi giần cám xuống nia

Được vài vốc tấm đem chia đều ngày

Tình em nghèo đến thế này

Anh còn vác ra đến vay mấy lần.



MỘT CHIỀU ĐI QUA



Chọn chiều một góc lá rơi

Để tôi ngồi với bóng tôi cỏ nhòe

Gót chân bờ nắng đắp be

Đôi bàn tay trắng không che nổi mình



Thời gian cứ bước chùng chình

Heo may ngọn gióp vô tình đuổi nhau

Tôi nào đo được nông sâu

Cuộc đời về tận đẩu đâu cuộc đời



Lá rơi xoăn xoắn lá rơi

Chút hương ngai ngái nói lời hoang sơ

Con đường rải trắng bụi mờ

Người đi khuất ngả, sỏi ơ – con đường



Bóng đêm đổ xuống kẽ tường

Tiếng con dế gáy dễ thường gọi tôi




EM TÔI



Người ta đi hái lộc xuân

Em tôi gợn gió dấu chân bụi đường



Người ta rong ruổi phố phường

Em tôi gốc ra khô nương náu lòng



Người ta kẻ nhớ kẻ mong

Em tôi một bóng ngồi đong đấu buồn



Người ta náo nức về nguồn

Em tôi lặng lẽ cánh buồm trên sông



Người ta tìm lá diêu bông

Em tôi quang thúng gánh gồng thóc chiêm



Người ta ngồi tựa mạn thuyền

Em tôi chiếc nón chung chiêng qua cầu.





TIẾP BƯỚC CHÂN QUÊ



Năm nào lên tỉnh ít ngày

Vẫn môi trầu thắm tóc dày rẽ nôi

Thay cho mặc yếm lụa sồi

Áo cài khuy bấm chị tôi về làng

Chỉ chừng ấy cũng đủ làm

Nhà thơ Nguyễn Bính bẽ bàng khổ đau



Nhìn nhung chị đội đầu

Áo cài khuy bấm nào đâu có gì

Trên đê lững thững chị đi

Chẳng còn bóng dáng như khi lên chùa

Thế là chuối chát chanh chua

Thế là ngọn cải muối dưa khú rồi



Bây giờ đến lượt em tôi

Lại đi lên tỉnh như hồi chị xưa

Cầm ô thay nón che mưa

Chẳng cần biết tới sớm trưa gió đồng

Chốn quê mẹ ngóng mẹ trông

Suốt năm suốt tháng vẫn không thấy người

Nào hay em ở góc trời

Áo thì một mảnh, váy thời nửa gang

Thả buông hết thưở gái làng

Chả còn một chút rơm vàng mạ non

Nếu nhà nho Nguyễn Bính còn

Thấy em sẽ khóc đến mòn con ngươi.



ĐỢI ĐÒ



Đợi đò hút điếu thuốc lào

Mắt lờ đờ nhả khói vào bến sông

Môi khô nứt nẻ mùa đông

Không chờ đêm Vẽ, không trông ngày Chèm



Đợi đò trên bến đò quen

Qua đê về Đợ nắng hoen mặt người




NHỮNG MẢNH GHÉP

1

Con đê làng rắc đầy hoa gạo đỏ

Tháng ba về sấm động phía trời xa

Đàn sáo sậu tưng bừng dàn hợp xướng

Đôi chào mào líu tíu hát song ca.

2

Tháng Sáu ao đình rợp hoa súng tím

Chú chích bông lách chách giữa vườn chanh

Chuồn chuồn ớt lặng im trên bờ giậu

Bói cá xanh bay đứng giữa trời xanh.

3

Tháng Tám cành hồng quả xanh quả chín

Khói lam chiều ôm ấp mái nhà gianh

Mấy đứa trẻ giành nhau con quay gỗ

Đèn kéo quân chú Tễu chạy vòng quanh.



Tháng Mười rơm vàng như kén tằm vàng óng

Hội tiệc làng cơm mới trắng như bông

Dưới gốc đa trâu nằm lim dim ngủ

Nắng dát vàng hoa cải rợp bên sông.




NHỮNG TẤM LÒNG VÀNG TRONG NHỮNG MÁI NHÀ TRANH

                 Từ nhở, tôi có may mắn được bố tôi đi công tác ở đâu cũng mang tôi đi theo và học ở đó. Chỉ trong vòng 9 năm ( từ 1947 đến 1956) tôi đi học ở 6 tỉnh: Hưng Yên, Thái Bình, Thanh Hóa, Sơn Tây, Vĩnh Phúc, Phú Thợ.
              Năm 1957 saukhi tốt nghiệp lớp 10 phổ thông ở trường cấp 3 Hùng Vương- Phú Thợ tôi được Ty Giáo dục Vĩnh Phúc tuyển làm giáo viên dạy Văn lớp 7 Trường cấp II Hoàng Văn Thụ ( Văn Quán) Lập Thạch.
              Tháng 9-1961 sau khi học xong khóa I Trường bồi dưỡng cán bộ quản lý giáo dục ở Mễ Trì – Hà nội, tôi được UBND tỉnh Vĩnh Phúc ra quyết định bổ nhiệm làm Hiệu trưởng Trường cấp II Thạch Đà ( sau lấy tên là Trường cấp II Phạm Hồng Thái) huyện Yên Lãng.

             Vào những năm đầu thập kỉ 60 miền Bắc vừa trải qua chiến tranh, bắt đầu bước vào thời kì xây dựng CNXH và là hậu phương cho miền Nam. Thời đó đất nước nghèo, nhân dân nghèo.

             Là một trường ở trung tâm huyện nên được huyện ưu tiên, đầu tư xây cho 4 phòng học khang trang nhất huyện, ngoài ra không còn có cơ sở vật chất nào khác. Văn phòng trường đặt nhờ ở một gian nhà tre lợp cói của Trạm y tế huyện. Giáo viên ăn, ở nhờ nhà dân.

             Trong gần 10 năm sống ở hàng chục địa phương khác nhau, cái cảm giác sống xa nhà, ở trọ luôn thường trực trong tôi. Nhưng khi về ở Thạch Đà, ngay từ đầu tôi đã có ấn tượng sâu đậm về phong cảnh, con người ở đây.

            Trước mặt ngôi trường là con đê như bức tường thành ngăn dòng nước sông Hồng đỏ nặng phù sa ngày đêm cuồn cuộn chảy. Người dân Thạch Đà sống ngoài đê hàng năm phải vật lộn với sông nước khi mùa mưa lũ về. Họ luôn luôn phải tìm mọi cách chung sống với nước. Hai cây gạo cổ thụ nằm ở ven đê sau đền làng không biết có tự bao giờ, xòe tán rộng như hai chiếc lọng che chở ngôi Đền cổ kính, rêu phong chứa đựng bao nhiêu kỉ niệm của làng quê. Những u bướu sần sùi trên thân cây gạo như chứng tích của sự thăng trầm trong lịch sử của vùng đất này.

            Tôi nhớ năm 1962 tôi cho các em học sinh theo dân đi đường tìm lá thư dấu ở gốc cây gạo có nội dung lịch sử với ý nghĩa: Tìm về cội nguồn của quê hương.

              Khác với những vùng quê khác, giữa trung tâm xã là khu chợ - Chợ Đợ - ngày đêm kẻ bán, người mua ra vào tấp nập. Hàng hóa từ Hà Nội, Việt Trì – Phú Thọ, Thị xã Phúc Yên theo các ngả đường bộ, đường thủy đổ về đây rồi lại từ đây đi các nơi khác. Phần lớn đàn ông của Thạch Đà đi làm mộc, xây dựng ở khắp nơi.

              Chống chọi với thiên nhiên, học cái hay, cái văn minh của các nơi khác, giao lưu với nhiều tầng lớp trong thương trường, trong xã hội,... tất cả đã làm nên cốt cách, phẩm chất tốt đẹp của người dân Thạch Đà: Tôn sư trọng đạo, hiếu học, nhạy bén, năng động, sáng tạo, cần cù, chịu khó, quyết liệt và dũng cảm.

              Nhớ ngày đầu mới về, ông Túy chủ tịch xã, ông Đăng chủ nhiệm HTX nông nghiệp đưa tôi đến xem từng nhà cho giáo viên đến ở. Tuy nhà tranh, tường vách nhưng nhà nào cũng gọn gang, sạch sẽ, sáng sủa. Đón tiếp chúng tôi ông bà nào cũng tỏ ra rất phấn khởi được đón các thầy cô giáo đến ở nhà mình. Cụ thân sinh ra thầy Khuyên cho mượn nhà nấu ăn. HTX cử xã viên nhanh nhẹn tháo vát làm cấp dưỡng phục vụ các thầy cô giáo. Tôi ở nhà ông Bào. Ông Bào thường đi làm mộc ở Hà Giang, một năm ông chỉ về nhà vài ba lần. Mỗi lần ông Bào về thường mang theo mấy lạng chè búp Hà Giang về uống. Những ngày ở nhà, sáng dậy ông pha trà mời tôi ngồi uống nước, nói chuyện về việc học hành của các con, nhờ thầy dạy bảo các cháu. Ở nhà bà Bào thỉnh thoảng lại bưng lên đĩa khoai lang luộc mời thầy giáo ăn.

             Vào những ngày giỗ, ngày tiệc, các gia đình đều mời bằng được các thầy cô ở nhà mình ngồi uống rượu với các cụ cao tuổi trong họ ở “ mâm trên”.

            Tấm lòng của các cụ, các ông bà đối với thầy cô giáo làm cho chúng tôi vô cùng kính phục và biết ơn. Sống trong không khí đầm ấm của gia đình, những lời nói ngọt ngào, những cử chỉ thân thiện,… làm cho chúng tôi có cảm giác như mình đang sống trong tình thương yêu, đùm bọc của bố mẹ mình ở nhà. Thật sung sướng khi được sống với Bắc Lý, chúng tôi đem hết sức mình say mê giảng dạy, giáo dục học sinh đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân Thạch Đà: “ Dạy bảo các cháu học tập tiến bộ”.

             Xa Thạch Đà đã 50 năm, nhưng tôi không thể nào quên được: “ Những tấm lòng vàng trong những mái nhà tranh”.

              Giờ đây tôi thầm nghĩ: “ Những thế hệ con cháu của Thạch Đà được thừa hưởng những phẩm chất quý báu của ông cha, nay họ đang làm nên một Thạch Đà giàu có vào bậc nhất huyện. Một Thạch Đà với những tướng tài tiêu biểu như Anh hùng lực lượng vũ trang Đại tướng Phùng Quang Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước Cộng hòa XHCNVN. Những nhà chính trị, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp tầm cỡ quốc gia, những giáo sư, bác sĩ giỏi,…”.

Tất cả đã và đang làm nên một Thạch Đà giàu đẹp và văn minh.
Nguyễn Can




TỔ THỦY LỢI TRÂU – HỔ NGÀY ẤY



               Nghe cái tên “ Tổ thủy lợi Trâu – Hổ” có vẻ kỳ kỳ. Nhưng sự thật đã có một cái tên như thế. Mà lại có cách đây đến nửa thế kỷ nữa cơ. Chuyện là thế này:

              Tôi là Hiền, Phùng Thị Hiền, sinh năm 1949, quê xã Thạch Đà. Những năm 63,64 của thế kỷ trước tôi đang ở độ tuổi mười bốn, mười lăm. Nghĩa là hơi quá”…thập tam” một tẹo. Nhưng quắt xài lai, đen nhẻm, đen nhèm chứ không được như các cháu tuổi “ teen” bây giờ. Nói đúng ra kể cả tuổi mụ thì tôi đã là mười lăm. Thời đó mười lăm tuổi mà đã vào học cấp 2 thì không phải là chuyện “ nhỏ như con thỏ” nữa đâu. Ối anh chị đã mười tám, đôi mươi vẫn còn ngồi “ chềnh ềnh” ở lớp đầu cấp ( lớp 5) kia mà. Tôi mới mười lốn, mười lăm nghĩa là còn “ bé lắm anh ơi!” mà đã được ngồi cùng lớp với các anh chị thì quả là oách quá đi rồi còn gì…

               Tôi vòng vo tam quốc một tý tẹo tèo teo như thế để thấy cái “ nguồn gốc” của thế hệ lũ học trò chúng tôi và cũng là nguồn gốc của cái tên nghe kỳ kỳ: Tổ thủy lợi Trâu – Hổ ngày ấy.

                Những năm đó, miền Bắc toàn Đảng, toàn dân đang phấn khởi bước vào thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế quốc dân trong không khí “ Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh” thì bè lũ Mỹ - ngụy bắt đầu nhòm ngó đánh phá ra hậu phương lớn để ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam ruột thịt. Khởi đầu là vụ đánh phá Hòn Mê năm 1964. Những khẩu hiệu như “ Tất cả cho miền Nam ruột thịt”, “ Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”… được kẻ ở khắp các bức tường trong thôn, ngoài xã. Cả nước rầm rộ với các phong trào “ Cờ Ba Nhất”, “ Gió Đại Phong”. “ Sóng Duyên Hải”, “ Trống Bắc Lý”. Rồi “ Thanh niên ba sẵn sàng”, “ Phụ nữ ba đảm đang”… Nổi bật là phong trào kết nghĩa Bắc – Nam. Tỉnh này kết nghĩa với tỉnh kia, đậm nghĩa tình đồng bào, đồng chí: Hà Nội kết nghĩa với Huế, Sài Gòn “ Hà Nội – Huế - Sài Gòn/ Như cây một cội, như con một nhà”. Phú Thọ kết nghĩa với Long – Châu – Sa… còn Vĩnh Phúc kết nghĩa với Bến Tre. Bến Tre là dừa. Dưà Bến Tre thì bạt ngàn như rừng nguyên sinh. Là thầy giáo bảo thế chứ lũ nhóc chúng tôi làm sao mà biết được. Mãi sau này có bài hát “ Người con gái Bến Tre” có câu “ Ai đứng như bóng dừa, tóc dài bay trong gió” mới thấy thầy bảo Bến Tre là dừa đúng thật! Hưởng ứng phong trào kết nghĩa đó, ở thị xã Phúc Yên có trường cấp 3 mang tên Bến Tre: Trường cấp 3 Bến Tre ( Cái tên này vẫn giữ nguyên cho đến tận bây giờ). Ở Thạch Đà, Yên Lãng thì có một công trình thủy lợi mang tên một huyện của Bến Tre, huyện Thạnh Phú, huyện này nằm ở giữa hai Cửa Đại và Cửa Cổ Chiên, của Cửu Long Giang Chín cửa. Đó là kênh Thạnh Phú. Kênh lấy nước từ song Cà Lồ, chảy qua Liên Mạc. Thạch Đà, Tam Đồng ra Thanh Tước… “ Tổ Thủy lợi Trâu – Hổ” của chúng tôi ra đời trong hoàn cảnh ấy. Nhưng sao lại có cái tên kỳ kỳ như vậy. Số là thế này. Hồi ấy chúng tôi chỉ học một buổi còn một buổi ở nhà chăn trâu, cắt cỏ, đi gặt, đi cấy, đi làm phân xanh… giúp đỡ gia đình lấy công điểm của HTX nông nghiệp. Tuy chỉ là lao động phụ nhưng làm cũng chẳng kém gì lao động chính, có khi lại còn hơn. Hè thì được nghỉ đúng 3 tháng vì lúc đó làm gì có chuyện “ dạy thêm, học thêm” như bây giờ. Chính 3 cái tháng nghỉ hè và con kênh Thạnh Phú kết nghĩa Bắc – Nam đã sinh ra “ Tổ thủy lợi Trâu – Hổ” của chúng tôi. Gọi là Tổ thủy lợi vì công việc là đi đào kênh mương làm thủy lợi. Còn cái tên “ Trâu – Hổ” thì cũng không phải tự nhiên mà có. Cũng không phải có ngay từ đầu mà một thời gian sau mới có. Số là thế này: Tổ chúng tôi có 9 người, tuổi đời na ná như nhau, cùng ở trong một đội sản xuất, đều là con nhà nông chính hiệu, quen lao động đồng áng từ nhỏ. Chúng tôi tập hợp lại thành tổ rồi đi xin việc. Cũng chẳng dễ dàng gì. May mà trong tổ có anh Khôi khá to cao và anh Thanh là con liệt sĩ nên mới được chấp thuận. Chín thành viên của “ Tổ thủy lợi Trâu- Hổ” ngày ấy là: Phùng Quang Thanh, Nguyễn Văn Khôi, Lưu Văn Đức, Nguyễn Hữu Nghệ, Lưu Văn An, Đỗ Viết Quang, Phùng Thị Hiền, Nguyễn Thị Từ, Đỗ Thị Mai.

              Tổ trưởng là anh Nghệ, một người hiền lành chăm chỉ lao động và hay giúp đỡ chúng tôi những buổi đi lao động ở trường. Tổ chúng tôi làm việc rất chăm chỉ, lại yêu thương, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau như anh em một nhà nên được các chú, các cô rất quý mến. Hồi ấy nhà ai cũng nghèo. Cơm là phụ, khoai sắn là chính. Tôi ăn được sắn, được khoai lang nhưng chịu không sao ăn được khoai nước. Khoai nước chủ yếu ở Bồng Mạc mang về chợ Đợ bán. Mẹ tôi mua về cũng luộc hai lần cho bớt ngứa. Ăn dẻo quánh và ngon. Nhất là có muối vừng mà chấm thì ngon phải biết. Nhưng tôi chịu. Ngứa cổ không chịu được. Tôi còn nhớ, có lần đi lao động ở trường, cánh chúng tôi chọn những củ ngon nhất mang biếu thầy giáo. Thầy bảo chúng tôi cắt ra cùng ăn. Thầy cắn một miếng khen dẻo và thơm quá. Nhưng nhai một lúc rồi nuốt thì ho sặc sụa vì ngứa. Thầy nước mắt, nước mũi ràn rụa vừa cười vừa bảo, ngứa quá nhưng mà ngon. Thế đấy, thưở ấy thầy trò chúng tôi thân tình như anh em một nhà.

                Anh Nghệ tổ trưởng phụ trách chung: Nhận việc, báo công lấy điểm hang ngày. Công điểm thì chia đều. Không phân biệt lớn bé, nam nữ, khỏe yếu gì cả. Tôi làm tổ phó phụ trách chấm công và gánh cơm nước cho cả tổ. Cũng không phải ngay từ đầu tập trung cơm nước gánh đi vì cơm ai người nấy tự túc. Nhưng rồi chúng tôi quyết định cơm nước gánh chung, ăn chung. Cũng không phải nói là xong ngay. Có người nhất định không chịu ăn chung. Không phải sợ ít nhiều mà mặc cảm vì cơm mình trộn nhiều khoai sắn quá. Lúc nghỉ ngơi ăn trưa là vui nhất. Ba đứa con gái chúng tôi tranh thủ rửa nhanh chân tay rồi chuẩn bị cho bữa trưa. Thường là tìm một chỗ mát ở dưới bụi tre hoặc gốc cây rồi trải tấm ny – lon cũ ra làm mâm. Chúng tôi cùng chia nhau từng củ khoai, từng lát cơm, từng bát nước vối. Vừa ăn vừa cười đùa trêu chọc nhau nhưng thân mật và rất vui. Bây giờ mỗi lần ngồi nhớ lại, nước mắt lại trào ra. Trong 9 người chúng tôi có 7 người sinh năm Sửu, tuổi Trâi còn 2 người sinh năm Dần, tuổi Hổ. Chúng tôi thường đùa nhau Trâu, Hổ ở cùng nhau mà không “ ăn thịt” nhau thì lạ thật. Lại còn yêu thương đùm bọc nhau như anh em một nhà nữa chứ. Vậy là chúng tôi bàn nhau đặt cho tổ mình một cái tên. Cũng cãi nhau ra trò nhưng cuối cùng đều thống nhất lấy tên năm sinh của 9 anh em chúng tôi ghép lại thành cái tên của tổ. Nghe tổ trưởng công bố cái tên độc đáo đó, mọi người nhảy cẫng lên reo hò và đều cho rằng đây là một “ phát minh vĩ đại”. Thế là cái tên “ Tổ thủy lợi Trâu – Hổ” ra đời từ đấy.

                Tổ chúng tôi duy trì đến khi con kênh đào qua xã Thạch Đà kết thúc. Tổ giải tán nhưng tình cảm của 9 anh em chúng tôi thì chẳng bao giờ phai nhạt.

               Đến năm 1967, 1968 thì 9 anh em trong “ Tổ thuye lợi Trâu – Hổ” chúng tôi mỗi người mỗi ngả. Anh Thanh, anh Đắc, anh Nghệ, anh An, Anh Quang lần lượt lên đường nhập ngũ. Anh Khôi đi học trung cấp điện bây giờ đang làm ăn sinh sống mãi tận Hà Giang. Cái Từ, cái Mai thì ở nhà làm ruộng. ( Cái Từ mới mất cách đây ít lâu. Thương quá!). Tôi đi học lớp y sĩ rồi về công tác ở trạm xá của xã. Trong 5 anh đi chiến đấu ở miền Nam thì 4 anh đã hy sinh, vĩnh viễn nằm lại ở chiến trường. Chỉ duy nhất còn sống trở về là anh Phùng Quang Thanh, Dũng sĩ quyết thắng trên Đồi Không Tên, được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang năm 1971, nay là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

                 Hàng năm, cứ tết đến, mấy an hem chúng tôi trong “ Tổ thủy lợi Trâu – Hổ” năm xưa lại cùng nhau đến thăm hỏi gia đình các anh đã mất. Gia đình các anh cũng coi chúng tôi như những người con trong nhà. Những lần đi cùng anh Thanh tôi thấy anh buồn lắm. Mấy chục năm sau hòa bình mà vẫn chưa biết bạn mình nằm ở nơi nào. Tôi chắc lòng anh không lúc nào yên. Năm 2010, anh đã cùng đồng đội đưa được thi hài liệt sĩ Lưu Văn Đức về quê. Hôm đó tôi không biết nên không về được vì tôi ở mãi tận Lào Cai. Tết về tôi ra nghĩa trang liệt sĩ thắp lên mộ anh nén hương, lòng tôi nghẹn ngào, khóc không thành tiếng. Những kỷ niệm xưa lại ùa về. Tôi lầm rầm khấn vái cầu mong linh hồn anh khôn thiêng mach bảo để anh Thanh đón được 3 người bạn còn lại là Nguyễn Hữu Nghệ, Đỗ Viết Quang, Lưu Văn An về với đất Mẹ.

                Nửa thế kỷ đã trôi qua. Tôi viết những dòng này để ôn lại những kỷ niệm không thể nào quên về thời thơ ấu, về “ Tổ thủy lợi Trâu – Hổ” ngày ấy và cũng là để nhớ lại một thời hào hùng và bi tráng, một thời HOA – LỬA CỦA dân tộc.

                Tôi viết những dòng này là để tri ân đối với quê hương củ tôi, với những người đã khuất và cả những người còn sống. Và xin được coi đây là một nén tâm nhang kính dâng lên hương hồn các anh và những người con của quê hương Thạch Đà đã anh dũng hy sinh cho nền Độc lập, Tự do của Tổ quốc.

Sa Pa, cuối đông 2012

Người con xa quê Phùng Thị Hiền kể

Phùng Ngọc Liên ghi



MỘT CHIỀU CUỐI NĂM

               Đó là buổi chiều cuối năm 2008.
                Chỉ còn vài ngày nữa là đến Tết Nguyên đán. Cái Tết cổ truyền của dân tộc . Tết sum họp gia đình. Ai đi đâu, ở đâu, Tết đến đều hối hả, sắm sửa về quê. Tôi quê tận Hà Tĩnh . Xa quê hơn nửa thế kỷ rồi mà cứ Tết đến là lại nhớ quê đến nao lòng. Đã ở cái tuổi “ cổ lai hy” nên càng nhớ. Nhớ đến quắt quay. Chiều hôm đó cũng vậy. Tay cầm cái chổi long gà nhè nhẹ phủi bụi trên bàn thờ mà lòng thì vẫn để ở quê. Mùa này cái ao làng ở cạnh nhà chắc đã cạn lắm rồi. Cái ao làng đã gắn bó với tuổi thơ một thời: kéo tôm, giặt giũ, rửa rau, tắm táp… tất tần tật đều ở cái ao làng ấy. “ Giã ơn cái cọc cầu ao/ Nửa đêm gà gáy có tao có mày…”. Cứ mỗi lần nhớ quê là y như rằng cái câu ca dao đạm màu quê kiểng ấy lại hiện về. Như là bệnh nghề nghiệp. Cả đời dạy văn chương chữ nghĩa… Nhớ cái truyện “ Làng” của ông Kim Lân. Thì người ta khóc lóc, vò đầu bứt tai về cái làng, vì những tin đồn nhảm nhí… Cứ nghĩ đến quê là cái nọ nhảy sang cái kia, chẳng có đầu có cuối gì cả. Đang nhớ làng, nhớ quê thì có điện thoại. Ở đầu dây bên kia, một giọng trầm ấm, thân tình vang lên: “ Em chào cô ạ! Em là Thanh, Phùng Quang Thanh ở Thạch Đà, học sinh lớp cô chủ nhiệm đây ạ! Cô có còn nhớ em không”? Tôi luống cuống trả lời: “ Có! Cô có nhớ! Em đang ở đâu? Sao có số điện thoại của cô thế”? Phía đầu dây bên kia lại vang lên: “ Em đang ở nhà. Em tìm cô bao năm rồi. Bây giờ em mới có được địa chỉ của cô. Lúc nữa em đến thăm cô. Em gọi điện trước kẻo đến đột ngột sợ cô không có nhà”! Tôi mừng quá, líu tíu trả lời: “ Cô đang ở nhà. Em đến đi! Mấy chục năm rồi cô không gặp em! Cô nhớ lắm”! “ Vâng! Em đến ngay đây! Em chào cô ạ”!...

                Tôi đứng lặng im, cầm điện thoại trên tay, bần thần chẳng biết phải để ở đâu. Cái Hồng, cháu tôi, thấy tôi nghe điện thoại chạy sang hỏi: “ Ai gọi đấy hả dì? Sao dì không để máy xuống”? Tôi giật mình bừng tỉnh để cái điện thoại vào chỗ cũ nói: “ Học trò cũ của dì. Cậu Thanh. Phùng Quang Thanh học sinh Trường cấp 2 Phạm Hồng Thái nơi dì dạy học khi mới ra trường, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ấy hả dì”? Rồi nó ôm chầm lấy tôi: “ Dì có người học trò thật tuyệt vời”! Ừ, cậu ấy bảo lúc nữa cậy ấy đến chơi. Không biết cậu ấy đi một mình hay đi với những ai. Dì hồi hộp quá. Tiếp đón thế nào cháu nhỉ? Cái Hồng vừa cười vừa nói: “ Thì cô giáo tiếp học trò như ngày xưa cô tiếp trò chứ sao ạ”! Tôi gõ nhẹ vào đầu nó nói: cháu thì chỉ …Nó đâu biết được tâm trạng mình. Tôi nhẹ nhàng bảo nó. Cháu cho dì phích nước và lấy cho dì hộp trà. Tý nữa ở đây với dì nhé! Dì vui và hồi hộp quá…

                Đến giờ Thanh hẹn, tôi bảo cái Hồng ra đầu ngõ đón khách cho dì. Chẳng là nhà tôi ở mãi trong ngõ. Lại chưa có số nhà, làm sao cậu ấy tìm được. Mà không biết có mấy người? Tôi đứng ở cửa chờ. Lòng thấp thỏm chờ Thanh. Không biết Thanh bây giờ thế nào. Trông trên truyền hình thì đĩnh đạc, cao lớn lắm. Mặc quân phục cấp tướng hẳn phải “ oai vệ” lắm. Nhà có 4 cái ghế, không biết có đủ chỗ ngồi không? Tôi cứ đi ra đi vào tự vấn mình như vậy thì bỗng nghe tiếng cái Hồng gọi: “ Dì ơi! Khách của dì đến rồi đây này”! Tôi chạy ra cửa thấy cái Hồng đang đi cùng ông khách, người cao lớn, mặc thường phục, giản dị chứ không giống như ông Đại tướng trên truyền hình. Ông khách lên tiếng: “ Em chào cô! Em Thanh đây”! Rồi bước nhanh đến nắm chặt bàn tay tôi. Tôi để yên bàn tay nhỏ bé, già nua của mình trong bàn tay to lớn, ấm áp của Thanh. Tôi đứng nhìn Thanh mãi mới nói được: “ Cô chào em! Cao lớn quá! Nhưng mà Thanh thật rồi! Đôi mắt này, cái miệng này, nụ cười này thì cô không bao giờ quên được. Mà Thanh này, cô vẫn thấy em “ bẽn lẽn” như hồi xưa ấy nhỉ’? Thanh cười hiền: “ Thì em vẫn thế mà cô”! Thấy cô, trò cứ đứng mãi ở cửa, cái Hồng nhắc: “ Cháu mời dì và bác Thanh vào nhà ạ”! Bấy giờ tôi mới sực nhớ ra, mời Thanh vào nhà.

                Hai cô trò ngồi nói chuyện thân mật, đầm ấm như người thân trong gia đình. Trong câu chuyện, Thanh nhắc lại chuyện Thanh xung phong đi bộ đội. Chuyện Thanh đến lớp báo tin cho cô biết mình sắp lên đường nhập ngũ và xin lỗi cô vì dở dang chuyện học hành những mong cô thông cảm và tha thứ vì cô đã đến tận nhà động viên, khuyến khích nên gắng thêm một năm nữa vậy mà Thanh vẫn quyết tâm đi bộ đội khiến cô buồn. Tôi lặng yên nghe Thanh tâm sự, nhắc lại chuyện xưa. Tôi nhớ lại cái thời buổi khó khăn đó. Nhà Thanh nghèo lắm. Lại là con liệt sĩ… Tôi thương lắm nhưng ngoài việc gặp gỡ, động viên, an ủi cũng không làm được gì hơn. Tôi nói với Thanh: “ Cô nhớ chứ”. Nhớ tất cả. Đấy là những kỷ niệm buồn nhưng đậm tình người, tình thầy trò. Cô vẫn thường theo dõi thời sự, biết em trưởng thành cô mừng lắm, tự hào lắm. Nay Thanh lại đến thăm cô, cô thật xúc động”. Thấy tôi rân rấn nước mắt, Thanh nói: “ Em đã về trường cũ. Đã gặp được một số thầy xưa. Em hỏi thăm các thầy, các bạn, chỉ biết cô đang ở Hà Nội còn địa chỉ cụ thể thì không ai biết. Lần hồi mãi nay mới tìm gặp được cô. Em thật có lỗi. Thanh nhẹ nhàng cầm tay tôi đặt lên tay mình. Tôi xúc động, nghẹn ngào nói: “ Đừng nói thế. Gặp được thế này là quý hóa lắm rồi. Em bận thế mà vẫn nhớ đến cô, lại đến tận nhà thăm cô là cô vui lắm rồi”. Tôi hỏi Thanh về chuyện gia đình. Thanh tâm sự: Em đưa cụ thân sinh xuống ở cùng gia đình em. Nhà em khỏe. Đã nghỉ hưu ở nhà nội trợ và trông nom cụ. Em được hai cháu. Các cháu đều khôn lớn, thành đạt cả rồi. Em bận không đến thăm cô luôn được cô thông cảm và tha lỗi cho em vui lắm. Hôm nào cô thấy khỏe trong người, em mời cô đến nhà em chơi. Đây là địa chỉ nhà em. Cô đến mẹ em và Lộc sẽ mừng lắm”!

                    Ngồi chuyện trò cũng đã lâu. Chuyện nọ nối chuyện kia tưởng chẳng thể nào dứt ra được. Nhưng rồi cũng phải đến lúc chia tay. Thanh xin phép ra về và nói: “ Cô ơi! Sắp đến Tết Nguyên đán rồi, em kính chúc cô và gia đình năm mới mạnh khỏe, an khang, thịnh vượng. Em biết ơn cô nhiều lắm. Cô đã an ủi, động viên em trong những thời khắc khó khăn nhất của cuộc đời. Em đã làm theo lời cô dặn dò quyết tâm học tập để thành người hữu ích. Em có chút quà nhỏ biếu cô kính mong cô nhận cho em vui”. Tôi nhận quà của Thanh mà lòng nghẹn ngào, xúc động. Đây không phải là nhận quà mà nhận tấm lòng của học trò đối với cô giáo. Tình cảm ấy không tiền bạc nào có thể thay thế được. Một đời dạy học hẳn đây là phần thưởng cao quý nhất.

                   Nhận lời Thanh, tôi đã mấy lần đến chơi. Thanh không có nhà nhưng gia đình đón tôi thật nồng ấm. Vợ Thanh, cô Lộc cứ gọi tôi là cô giáo, chuyện trò thân thiết như người em gái. Từ khi biết tôi cũng quê Hà Tĩnh, đồng hương với Lộc, tình cảm cô trò, tình cảm chị em, tình cảm đồng hương càng thêm gắn bó keo sơn.

                   Buổi chiều cuối năm đó mãi mãi là một kỷ niệm đẹp, không thể phai mờ trong cuộc đời tôi. Giờ thì ngoài quê cha sinh, mẹ đẻ ở Hà Tĩnh tôi lại có một quê hương thứ hai, nơi tôi dạy học đầu đời, nơi tôi có những học sinh đầy tình nghĩa. Lòng tôi ấm áp bớt đi nỗi cô đơn mỗi khi nhớ về quê cha, đất tổ. Tôi cảm ơn Thanh, cảm ơn Lộc, cảm ơn những học trò đã cho tôi lòng tự hào về sự nghiệp “ trồng người” mà cả đời tôi gắn bó.

Hà Nội – Một chiều cuối năm 2012

Nguyễn Thị Lai kể

Phùng Ngọc Liên ghi



SỐNG GIỮA LÒNG DÂN

               Hè năm 1961, thi tốt nghiệp xong, tất cả chúng tôi đều phải viết đơn tình nguyện đi bất kỳ nơi đâu khi Tổ quốc cần. Tuy vậy, trong mẫu đơn vẫn mở cho 3 sự lựa chọn theo nguênj vọng của mình. Không khí trong khu tập thể những ngày ấy vừa sôi động, vừa bí mật. Sôi động vì chỗ nào cũng thấy bàn tán về việc đi đâu: Thôn quê hay thành phố, miền núi hay đồng bằng? Bí mật vì không ai muốn tiết lộ 3 cái nơi mà mình có nguyện vọng đến. Thế nhưng ai cũng biết, trừ một số anh chị em miền Nam tập kết , còn lại, nguyện vọng một ai cũng ghi quê mình. Thú thật, ai mà không muốn về quê cho gần nhà. Riêng tôi thì hơi khác. Tôi quê ở Sơn Tây. Ông cụ thân sinh lại đang làm ở Ty giáo dục. Tôi xin về quê thì… dễ ợt. Nhưng tôi không thích “ núp bóng” ông cụ, lại sẵn máu xê dịch trong người nên sau mấy đêm suy nghĩ, cân nhắc tôi viết vào lá đơn 3 nguyện vọng.

             Nguyện vọng thứ nhất, tôi ghi Bắc Ninh. Chẳng là tôi mê Kinh Bắc. Mê dòng song “ Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”. Mê nón ba tầm. Mê áo mớ ba, mớ bảy. Mê “ Lúng liếng là lung liếng ơi…”. Nói chung, trong con mắt tôi, Bắc Ninh là nơi thơ mộng và lãng man bởi những câu quan họ làm xao xuyến lòng người.

            Nguyện vọng thứ hai tôi ghi: Cao Bằng. Đã không về quê để đi tìm “ Con mắt người Sơn Tây” thì lên núi. Lên đó để đi tìm “ Con mắt người Sơn Tây” thì lên núi. Lên đó để xem cái anh lính thú ngày xưa đi đứng kiểu gì. Để sống lại cái cảnh đưa tiễn “ Nàng về nuôi cái cùng con/ Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng”vxem nó ra sao? Đi Cao Bằng lại cũng còn vì tôi mê cái hoang dã, kỳ vĩ của thác Bản Giốc, của con đèo mà khi lên thì hí ha hí hóp, còn khi xuống thì ngựa cũng phải quỳ. Đó là đèo Mã Phục. Rồi hang Pắc Pó thiêng liêng, nơi mà vừa đúng 20 năm trước, Bác Hồ về đây nhóm lên ngọn lửa cách mạng giải phóng dân tộc.

                Nguyện vọng thứ ba cũng là núi cao: Hà Giang. Cao nguyên đá Hà Giang và cái chòm Lũng Cú mà thầy dạy địa tôi bảo đấy là nơi xa nhất của địa đầu Tổ quốc. Tôi xin đi Hà Giang cũng còn một lý do nữa, ấy là cái chợ tình Khau Vai. Sao mà các cụ ngày xưa lại nghĩ ra cái chợ tình kỳ lạ ấy nhỉ? Phải chăng, đâu mối tình nào rồi cũng được trọn vẹn, cũng nên vợ nên chồng, do vậy ông trời mới mách cho các cụ nghĩ ra cái chợ tình có một không hai trên thế gian này để mà bù đắp lại cho nhau chăng?

               Thế nhưng việc đời nếu cứ theo ý mình thì chẳng có gì để nói. Tháng 9, tôi nhận quyết định. Cầm cái phong bì mỏng tang mà thấy nặng chình chịch. Tay run run bóc cái phong bì, mắt nhắm nghiền lần tìm tờ quyết định mà hồi hộp toát cả mồ hôi. Bắc Ninh, Cao Bằng hay Hà Giang đây? Nói thật là sau mấy tháng nghĩ lại thấy mình quá liều. Sợ. Sợ thật sự. Nếu về Cao Bằng, Hà Giang thì làm sao đây? Người ta bảo phải đợi chờ hang tuần mới có ô tô. Lên ô tô rồi cũng phải vài ba ngày mới tới nơi. Vậy là sợ. Chỉ mong được về Kinh Bắc. Nhưng rồi cũng phải mở mắt ra mà nhìn. Thì “ một liều ba bảy cũng liều” chứ sao! Thật không tin vào mắt mình nữa. Chẳng phải quê nhà Sơn Tây. Chẳng phải Kinh Bắc, Cao Bằng, Hà Giang mà lại là Vĩnh Phúc. Thế đấy, trên đời này đâu có phải cứ ước gì là được nấy. Âu cũng là duyên phận.

              Tôi về Ty giáo dục Vĩnh Phúc bằng xe hỏa từ Hà Nội lên. Đến ga Vĩnh Yên thì xuống. Nắng trung du như đổ lửa. Lễ mễ một tay xách cái hòm nhỏ đựng mấy bộ quần áo, một tay khệ nệ ôm chồng sách, nguồn tri thức mới học được trong nhà trường mang theo để thực hành sự nghiệp “ gõ đầu trẻ”, tôi tìm về Dốc Láp nơi Ty giáo dục Vĩnh Phúc đóng trụ sở. Gọi là trụ sở Ty giáo dục nhưng tuyềnh toàng lắm. Phần lớn là nhà tre lợp lá cọ, một “ đặc sản” của vùng trung du. Đón an hem chúng tôi là ông Thọ, Trưởng phòng Tổ chức trong một cái hội trường bé tẹo, kê một dãy ghế ban an. Cũng chẳng chuyện trò, huấn thị gì nhiều. Chỉ vài ba câu động viên các đồng chí về trường công tác cho tốt. Rồi phát quyết định. Đi bằng gì thì “ tùy nghi di tản”. Tôi nhận quyết định, giở ra thấy ghi: Trường cấp 2 Quyết Thắng, huyện Yên Lãng. Hôm đó chỉ có mình tôi. Lạ nước lạ cái, chẳng biết Yên Lãng ở đâu. Hỏi thăm mới biết là một huyện nằm ở ven đê Sông Hồng, giáp với Phúc Yên rồi lại lễ mễ đi bộ hơn 10 cây số tìm về thôn Bồng Mạc nơi trường cấp 2 Quyết Thắng đóng ở đó. Nói thì nhanh và có vẻ dễ dàng, nhàn hạ như đi dạo phố nhưng thật ra vất vả vô cùng. Đường thì xa, nắng thì dữ, tay xách, nách mang, mồ hôi nhễ nhại. Về đến trường đã gần tối. Các thầy đang chuẩn bị ăn cơm. Tôi được thầy Can, hiệu trưởng trưởng “ đón tiếp”. Cuộc đón tiếp này còn đơn giản hơn ở Ty giáo dục nhiều. Thầy bảo, chú để các thứ ở đây, rửa mặt mũi chân tay rồi ăn cơm. Ăn xong ta nói chuyện. Thì cũng có chuyện gì. Trường đang thiếu giáo viên. Mai lên lớp ngay. Đấy, tôi vào nghề như vậy đấy. Không có ấn tượng gì đặc biệt. Hôm họp hội đồng đầu tiên tôi mới biết mặt, biết tên tất cả. Trường có 15 thầy. Không có nữ. Ngày ấy giáo viên nữ rất hiếm. Cả tỉnh chỉ có hơn chục cô ( là sau này đi học hè, tập trung giáo viên cả tỉnh, tôi mới biết). Người nhiều tuổi nhất là thầy Đỗ Trung Thiệu. Gọi là nhiều tuổi nhưng cũng chỉ ngoài 30 một chút. Thứ hai là thầy hiệu trưởng Nguyễn Văn Can, hơn anh em chúng tôi vài ba tuổi, còn lại thì sàn sàn như nhau. Tôi ít tuổi nhất, suýt soát tròn 20. Trong 15 người thì có 6 người ở tỉnh ngoài. Tôi, thầy Phú người Xứ Đoài, thầy Quý, thầy Báu, thầy Khải, thầy Phấn người Xứ Thanh còn lại là các thầy ở Vĩnh Phúc.

              Chúng tôi ở tạm Bồng Mạc đến hết kỳ I thì chuyển về Thạch Đà. Lúc đó Thạch Đà là huyện lỵ của huyện Yên Lãng. Đương nhiên trường trở thành trường huyện, thu hút học sinh ở 9 xã phía bắc. Trường cũng đổi tên là trường cấp 2 Phạm Hồng Thái. Như vậy, huyện Yên Lãng ở thời điểm đó có hai trường cấp 2 là Phạm Hồng Thái ở phía bắc, trường huyện và Trưng Vương ở phía nam. Học ở trường mới mang tên mới được một thời gian, tôi tìm hiểu về tiểu sử liệt sĩ Phạm Hồng Thái thì chỉ thấy ghi trong sách giáo khoa lịch sử lớp 7 ( lớp cuối cấp 2 trong hệ thống giáo dục phổ thông 10 năm) mấy dòng sơ sài: Anh là thanh niên yêu nước, đóng vai ký giả mang bom vào khách sạn Victoria ở Sa Diện giết tên toàn quyền Méc – lanh nhưng không thành, nhảy xuống sông Châu Giang tự vẫn còn không có thông tin gì khác. Lúc đó sách báo rất hiếm. Lấy tên người chiến sĩ cách mạng kiên trung làm tên trường mà không có một dòng tiểu sử, tôi áy náy không yên. Tôi tâm sự điều này với thầy Can hiệu trưởng để tôi về Viện sử học xem có không. Thầy Can thấy cũng khó nhưng động viên tôi cứ thử xem sao. Thế là tôi về Hà Nội, đến Viện sử học, hỏi thăm nơi làm việc của ông Viện trưởng Trần Huy Liệu. Tôi biết ông là Trưởng phái đoàn Chính phủ vào Huế chấp nhận sự thoái vị và nhận ấn tín của Vua Bảo Đại sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ở nhà thì hăng hái và rất tự tin nhưng đến Viện, nhất là khi đứng trước cửa phòng ông thì sợ. Tôi gõ cửa rồi bước vào. Càng sợ. Ông đã ở tuổi 60 còn tôi mới 20. Ông là Viện trưởng một Viện danh giá thời đó, lại là người đã từng thay mặt Chính phủ vào tước ấn tín của nhà vua. Còn tôi là một cậu giáo non choẹt trường làng bảo tôi không sợ sao được. Nhưng rồi cũng qua. Ông hỏi: Cậu cần gì? Ngồi xuống đi. Giọng ông ấm áp, thân tình khiến tôi trở lại bình tĩnh giới thiệu tên, nơi đến và trình bày nguyện vọng của mình. Ông khen: thế là tốt. Thế mới đúng. Tôi sướng quá mà không dám nói gì chỉ ngồi yên lặng. Ông lại nói: Để tôi bảo bà thư ký đánh máy cho. Rồi ông gọi bà thư ký ở phòng bên sang. Ông bảo tôi ngồi đợi còn ông làm công việc của mình. Độ khoảng nửa giờ, bà thư ký mang sang một lượt rồi trao cho tôi và bảo: Cậu cầm về. Cố gắng dạy dỗ học trờ cho tốt và nhớ là phải đọc nhiều nhé. Tôi mừng khôn xiết, cảm ơn ông rồi ra về. Ra ngoài, tôi đứng ở hiên nhà đọc kỹ trang tiểu sử liệt sĩ cách mạng Phạm Hồng Thái. Bây giờ thì tôi biết được tên thật của ông là Phạm Thành Tích còn tên Phạm Hồng Thái là tên hoạt động cách mạng. Hồng Thái có nghĩa là trời hồng. Sau này tôi còn được biết thêm nhà sử học Trần Huy Liệu rất khâm phục nghĩa khí của ông và đã làm một bài thơ ca ngợi khí tiết của ông sau sự kiện “ Tiếng bom Sa Diện” năm 1924. Bài thơ có những câu:

“…Một tiếng lôi đình kinh vũ trụ

Tấm gương trung nghĩa động thần minh

Chiếc thân đã gửi cho dòng nước

Trong sử con ghi mãi tính danh…”

                Trường về Thạch Đà có cơ sở khá khang trang, đó là dãy phòng học, tuy một tầng nhưng xây kiên cố, lợp ngói. ( Dãy phòng học ngày tồn tại gần nửa thế kỷ. Cách đây mấy năm mới phá đi để xây dãy nhà 2 tầng). Trường có cả sân vận động đủ diện tích nhưng nhà tập thể thì không có. Anh em chúng tôi được phân công vào ở nhờ nhà dân ngay cạnh trường.

              Thạch Đà tuy là xã bán nông, bán thương song hồi đó nhìn chung còn nghèo nhưng gia đình nào cũng nhiệt tình, vui vẻ khi được đón thầy về ở nhà mình. Tôi về ở nhà ông Tý ngay cạnh đường đi. Ở đây mọi người gọi ông là ông Tý ngay cạnh đường đi. Ở đây mọi người gọi ông là ông Tý ‘ cụt” vì ông là thương binh bị cụt mất mấy ngón tay trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Lại cũng gọi ông là ông Tý Vầy theo kiểu ghép tên hai vợ chồng với nhau. Nhà ông có 5 người: Hai vợ chồng ông, hai cháu gái là cái Hải và cái Hà ( Cái Hải gầy nhom học lớp Một. Cái Hà thì ngược lại, mũm mĩm, trắng trẻo rất đáng yêu) và bà Châu chị ông. Cả nhà gọi tôi bằng cậu theo cách gọi theo con. Cậu Liên. Cậu là em trai mẹ. Vậy tôi là người nhà. Tôi gọi vợ chồng ông là anh, chị, xưng em và gọi bà Châu là cô, xưng em như ở quê tôi: chị và em bố đều gọi là cô cả. Anh chị chấp thuận cách gọi vậy và quý cậu em “ dài lưng tốn vải” không chê vào đâu được, còn cái Hải và cái Hà, nhất là cái Hà thì quấn quýt cậu Liên suốt ngày. Nhà có 4 gian, 3 gian ngoài và một gian buồng. Gian ngoài phía bên trái ông dành cho tôi, kê một giường ngay cửa sổ nhìn ra con đường huyện lộ đi Phúc Yên còn phía trước cạnh cửa sổ, kê chiếc bàn làm việc. Gian giữa để bàn thờ. Gian cạnh sát vách buồng kê giường của cô Châu và cháu Hải. Gian buồng là của vợ chồng ông và cháu Hà ( sau này, khi tôi ra ở nhà tập thể, anh chị sinh thêm hai cậu con trai là Lâm và Bình. Thế là có nếp có tẻ. Anh chị vui lắm). Ông bảo cậu ở đây như ở nhà. Dầu đèn không phải mua. Xà phòng không phải mua. Ngày thường ăn ở bếp tập thể. Chủ nhật ăn với anh chị. Tôi dặn trước thế. Cậu không nghe tôi không cho ở đâu. Trời ạ! Ông ra lệnh như trong quân đội. Nói xong, ông cười khà khà, mắt tít lại. Tôi chỉ còn biết vâng. Những cái không nói dối được tôi tuân lệnh ông. Những cái nói dối được tôi làm trái ý ông, ông cũng phải chịu.

                Gia đình ông là một điển hình kiểu Thạch Đà. Ông làm thợ xây. Đi đây đi đó, lên tận Hà Giang, có khi nửa năm mới về. Cũng có khi ở nhà lâu lâu, có khi về đôi ba ngày rồi đi ngay, nhất là vào dịp sắp Tết Nguyên đán. Chị Vầy thì buôn chuyến, mang miến, gạo từ dưới xuôi lên ngược. Khi về mang theo măng khô, mộc nhĩ… Cô Châu thì buôn bán lặt vặt còn chủ yếu là trông nom nhà cửa và lo cơm nước. Cô Châu tuy ở chung nhưng có vốn riêng. Tôi không hỏi kỹ việc buôn bán của hai bà, song ngày ấy, kinh tế như vậy là thuộc loại khá dư dật. Cả nhà ai cũng dễ tính và rất vui, nhất là hai vợ chồng ông Tý. Những ngày ông ở nhà lúc nào cũng đầy ắp tiếng cười. Hai an hem tôi hợp nhau, nhiều hôm chuyện trò tếu táo, tán phét đến tận khuya. Nhiều lần ông bảo tôi: Cậu mời ông cụ sang chơi với gia đình. Tôi bảo: bố em đi sao được. Đang công tác. Đường lại xa, sông đò cách trở. Ông bảo: được, cậu không mời thì tôi mời. Cũng tưởng ông đùa ai ngờ ông làm thật. Lần ấy ông về nghỉ cả tháng. Ông bí mật viết thư cho bố tôi. Bố tôi nhận được thư sợ hết hồn, vội vã xin phép nghỉ, đạp xe sang xem con thế nào mà ông chủ nhà mời bố sang để “ bàn câu chuyện về cậu Liên”. Bố tôi sang, không dám vào nhà ông ngay mà tạt vào trường. Thấy tôi vừa ở lớp đi ra, ông gọi giật giọng. Tôi kinh ngạc chạy đến hỏi: Bố sang làm gì, có việc gì mà sang thế? Thấy tôi hoàn toàn bình thường, bố tôi liền đưa cho tôi cái thư và bảo: Bác Tý viết thư bảo bố sang bàn việc của con. Tôi bật cười, hiểu ra nguyên nhân cơ sự này. Tôi đọc thư. Trong thư có câu: “ Bác sắp xếp công việc sang ngay, em cần bàn với bác chuyện của cậu Liên”. Cha mẹ ơi! Viết thế thì còn trời đất nào nữa. Ai mà không phải sang ngay. Tôi nói rõ lý do rồi đưa bố tôi về nhà. Thấy bố tôi sang cả nhà vui như tết. Ông Tý cười khà khà nói: Cậu thấy chưa? Cậu không mời thì tôi mời. Ông phải sang chứ. Bữa cơm trưa hôm ấy thật vui. Cả nhà đều khoe tôi khá lắm, chăm chỉ và rất chững chạc, làm tôi ngượng chin cả mặt. Bởi vì, tôi ở nhà vừa lười, vừa nghịch không được như các em. Bố tôi biết rõ quá đi rồi. Làm gì vừa ra trường làm ông giáo mà đã “ lột xác” nhanh chóng đến như vậy.

                Tôi ở nhà ông, nhiều khi cũng gây phiền toái. Tôi hay thức khuya. Khi thì soạn chấm bài. Khi thì đọc sách. Tôi lấy cái giấy làm phễu che đèn đi để cô Châu ngủ. Có hôm khuya quá, cô thức giấc thấy tôi vẫn thức, cô xuống bếp mang khi thì mấy củ khoai lang, khi mấy củ khoai nước và chút muối vừng bảo cậu ăn đi, thức khuya đói lắm. Tôi chỉ biết nói nhỏ em cảm ơn cô. Cũng có hôm học sinh kéo đến cả chục em, chật nhà. Cười nói, chuyện trò đủ thứ. Tôi nhiều lần nhắc nhở các em nói cười khẽ thôi để cô ngủ. Những lúc như vậy, cô lại nói: Kệ chúng nó chuyện trò cho vui. Thấy mấy em học sinh lớn tuổi hay đến hỏi bài, chị Tý còn bảo: Cậu xem có đứa nào ưng thì bảo chị, chị làm mối cho. Con gái ở đây đảm lắm. Chị thấy mấy đứa nó thích cậu đấy. Tôi cười bảo em còn tý tuổi, vợ con gì. Chị lại bảo, cậu sợ à, chúng nó 17, 18 cả rồi đấy. Ở đây, tuổi ấy, lấy vợ, lấy chồng cả rồi. Cứ lấy đi rồi ở đây với chị cho vui. Tôi chỉ cười trừ. Thực tình cũng chưa muốn lấy vợ… Thế đấy, bà con dân làng đối với chúng tôi chẳng khác gì tình quân dân như “ cá với nước”. Những ngày chủ nhật hoặc các buổi tối rỗi rãi, tôi thường sang chơi nhà phụ huynh quanh xóm. Nhà ông Bào, nhà ông Cân. Hai ông cũng là mẫu người Thạch Đà. Ông làm thợ mộc còn bà buôn chuyến. Ông Bào làm mộc tận Hà Giang, mỗi khi về đều có chè tuyết mời an hem chúng tôi sang chuyện trò, thưởng thức. Ông Cân ở ngay đối diện nhà ông Tý tôi ở, cách một cái ao nhỏ, tôi thường men theo cái bờ chênh vênh, trơn tuột sang chơi. Đối diện nhà tôi ở, bên kia đường là nhà cụ Hách, phía dưới chút ít là nhà ông Hanh con trai cụ làm nghề thợ may, tuy ở riêng nhưng vẫn liền nhà. Nhà có hai cô cháu cùng tuổi, cùng học một lớp: Thái là cô, còn Thực là cháu. Hai cô cháu xinh xắn, trắng trẻo, hiền hòa, nhỏ nhất lớp nên thầy nào cũng quý. Tôi chỉ bằng tuổi con cháu cụ nhưng một điều cụ gọi tôi là thầy, hai điều cụ gọi tôi là thầy, nhòe thế tôi học được ở cụ sự nghiêm cẩn, kính trọng trong cách ứng xử. Tôi không thể kể hết những tình cảm sâu đậm của nhân dân, làng xóm Thạch Đà đã dành cho chúng tôi những ngày đầu về đây dạy học với biết bao khó khăn, vất vả. Không chỉ Thạch Đà mà gia đình phụ huynh các xã khác cũng vậy. Suốt một dải bãi, từ Đầu Đê qua Yên Thị, Thọ Lão, Chu Phan, Hoàng Kim…; suốt một dải đồng từ Bạch Trữ, Phú Mỹ, Sa Mạc, Bồng Mạc, Tam Đồng … nơi nào phụ huynh, nhân dân cũng quý mến, thân tình với các thầy như vậy. Tôi còn nhớ phụ huynh em Được lớp tôi chủ nhiệm, ở mãi tận xóm Trại thôn Sa Mạc, biết tôi ở Sơn Tây, tết và nghỉ hè muốn về quê tôi phải đi bộ vài bốn chục cây số hoặc vào tận Phúc Yên đi xe lửa về Hà Nội rồi lại bắt ô tô đi Sơn Tây rất vất vả, ông bảo Được mang xe đạp xuống cho tôi mượn. Lúc đó nghèo lắm. Rất hiếm người có xe đạp. Mãi đến thập kỷ 70, xe đạp vẫn còn quý như vàng, phải đăng ký, có biển số như ô tô, xe máy bây giờ. Vậy mà phụ huynh cho mượn cả tuần, cả tháng thì biết các bậc phụ huynh thương yêu và quý mến thầy giáo như thế nào. Tấm lòng thơm thảo ấy tôi không bao giờ quên được. Đáp lại, chúng tôi không tiếc sức, tiếc công dạy dỗ các em. Không chỉ ở trên lớp mà mỗi tuần mấy tối tới tận gia đình các em vừa là để thăm hỏi, vừa là để giúp các em học tập. Tình cảm, quan hệ thầy trò lúc đó có thể nói là trong vắt, đẹp đến thánh thiện.

             Nửa thế kỷ đã trôi qua. Giờ tôi đã ở cái tuổi “ cổ lai hy” nhưng những dấu ấn đầu đời làm nghề dạy học, mỗi khi ngồi ngẫm nghĩ lại vẫn thấy còn nguyên vẹn như xưa. Những ngày ấy, tôi đã được sống trong vòng tay thân ái, quý trọng của học trò, sống trong tình yêu thương, đùm bọc của các bậc phụ huynh, của nhân dân. Có thể nói người dân Thạch Đà đã cưu mang, đã giúp tôi thêm yêu quý, thêm tự hào đối với nghề dạy học. Chúng tôi đã dạy các em học sinh lẽ sống làm người tử tế, biết yêu thương, quý trọng con người, biết hết lòng vì thế hệ trẻ. Một đời dạy học, tôi có thể tự hào và không phải ân hận về những gì mình đã làm.

             Ngày đó, người dân Thạch Đà đã coi tôi như người nhà. Giờ đây, tuy không còn ở Thạch Đà nữa nhưng tôi vẫn coi mình là người con của Thạch Đà xa quê. Ở xa nhưng tôi luôn nhớ về Thạch Đà da diết.

              Tôi ghi lại những kỷ niệm này để bày tỏ lòng tri ân của tôi đối với Thạch Đà, quê hương thứ hai của tôi mà tôi hết lòng yêu mến, nhớ thương…

Mùa đông 2012

Phùng Ngọc Liên



DŨNG SĨ QUYẾT THẮNG TRÊN ĐỒI KHÔNG TÊN
             Phùng Quang Thanh, sinh năm 1949 trong một gia đình nông dân liệt sĩ nghèo tại vùng châu thổ sông Hồng thuộc xã Thạch Đà, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc. Từ nhỏ Phùng Quang Thanh đã rất tự hào về quê hương mình, nơi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, lãnh đạo nhân dân giành được độc lập và định đô tại Mê Linh. Câu thơ trong trang sách học trờ lúc nào cũng in đậm trong tâm hồn anh:

Bà Trưng quê ở Châu Phong

Giận quân tham bạo, thù chồng chẳng quên

Chị em nặng một lời nguyền

Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân
-----

Đô kỳ đóng cõi Mê Linh

Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta …”

            Lớn lên anh lại được học trong ngôi trường mang tên liệt sĩ Phạm Hồng Thái, người thanh niên yêu nước, đã dũng cảm mang bom vào khách sạn Victoria ở Quảng Châu – Trung Quốc giết tên toàn quyền Merlin.

            Tấm gương của Hai Bà Trưng, của Phạm Hồng Thái đã hun đúc tinh thần yêu nước trong anh. Anh luôn luôn mơ ước trở thành anh bộ đội Cụ Hồ, cầm sung tiêu diệt kẻ thù xâm lược. Và rồi, mơ ước đó đã thành sự thật. Ngày 23 tháng 7 năm 1967 anh lên đường nhập ngũ. Ngay năm sau, năm 1968 anh tham gia chiến đấu tại chiến trường Quảng Trị, làm nhiệm vụ trinh sát. Nhiều lần anh cùng tổ trinh sát vào căn cứ địch điều tra tình hình, giúp cấp trên chỉ huy tác chiến thắng lợi. Với tinh thần phấn đấu không mệt mỏi, ngày 11/6/1968, Phùng Quang Thanh được kết nạp vào Đảng.

            Đầu năm 1971, Phùng Quang Thanh tham gia chiến dịch Đường 9 – Nam Lào chỉ huy trung đội 2 đánh 2 trận đều đạt hiệu suất cao, góp phần tích cực cùng tiểu đoàn diệt gọn một tiểu đoàn và một đại đội địch.

             Ngày 10/2/1971, Phùng Quang Thanh trực tiếp chỉ huy một tiểu đội là mũi chủ yếu, chốt giữ Đồi Không Tên. Địch dung đại đội 33 thám báo ngụy, có máy bay yểm trợ, chia làm hai mũi tiến công chốt. Riêng Phùng Quang Thanh diệt 8 tên. Đây là trận chiến đấu mở màn cho Trung đoàn 64, được Trung đoàn nêu gương là trận đánh nhanh, diệt gọn, đạt hiệu suất chiến đấu cao, gây khí thế thi đua giết giặc lập công trong toàn trung đoàn.

             Hai ngày sau, ngày 13 tháng 2 năm 1971, địch lại tiến công chốt. Tuy bị thương ( một mảnh pháo găm vào bả vai trái, tay trái không cử động được, cấp trên cho về tuyến sau) nhưng anh nghĩ đến trách nhiệm của một cán bộ chỉ huy trung đội, lại là đơn vị chủ công đánh quân đổ bộ đường không, không thể rời trận địa vào lúc này, nên kiên quyết xin ở lại chỉ huy trung đội chiến đấu. Súng không dung được nữa, để khắc phục khó khăn do vết thương gây nên, Phùng Quang Thanh nhờ chiến sĩ tháo sẵn nắp 17 quả lựu đạn cho vào túi đựng cơm vắt(), vào bọc đựng trang bị phòng độc rồi đeo quanh người cho anh, lại nhờ y tá băng đeo cánh tay trái cho đỡ vướng. Anh bàn bạc cùng an hem kế hoạch đánh địch rồi dẫn đầu trung đội xung phong đánh tạt sườn quân địch, đánh hất địch xuống mỏm 3, diệt gọn một đại đội địch. Riêng trung đội Phùng Quang Thanh diệt 37 tên, bắt 1 tên, thu 2 súng, góp phần cùng tiểu đoàn tiêu diệt tiểu đoàn 6 dù ngụy. Đây là trận đánh tiêu diệt điển hình của chiến dịch, điển hình cả về chiến thuật đánh quân đổ bộ đường không. Trận này đồng chí Phùng Quang Thanh trực tiếp diệt 11 tên địch, bắt sống 1 tên, thu 1 súng. Kết thúc chiến dịch, đơn vị bình công, đồng chí được an hem nhất trí bầu là Chiến sĩ thi đua, Dũng sỹ quyết thắng, được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhì.

           Sau chiến dịch Đường 9- Nam Lào năm 1971, anh cùng đoàn dũng si miền Nam ra miền Bắc báo cáo thành tích chiến đấu và ngày 20/9/1971 người dũng sĩ trên Đồi Không Tên năm xưa được phong danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.

             Trưởng thành từ người lính, qua từng cấp bậc chỉ huy, lăn lộn hết các chiến trường, giờ đây anh đã là Thượng tướng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Đảng ủy quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Quân đội nhân dân Việt Nam. Chức vụ cao, trách nhiệm nặng nề song trong công tác cũng như trong cuộc sống đời thường anh là một người khiêm tốn, giản dị, sống hòa đồng với mọi người rất được đồng đội và nhân dân quý mến, tin yêu.

Theo Thiếu tướng Lê Mã Lương

Trong cuốn “ Những kỷ vật kháng chiến”

Tập 4 của Bảo tang

Lịch sử Quân sự Việt Nam, NXB QĐND

ấn hành tháng 6/2007

(Nguyễn Phú và Phùng Liên sưu tầm giới thiệu)



KÝ ỨC QUÊ HƯƠNG
              Quê tôi nằm ở miền châu thổ sông Hồng. Mảnh đất ấy nghèo lắm, từ ngàn xưa đã có truyền thống anh hùng bất khuất, đánh giặc giữ nước; nơi có khở nghĩa của Hai Bà Trưng từ những ngày đầu lập nước và nhiều tên tuổi vĩ nhân, hào kiệt khác. Ngày nay, truyền thống ấy ngày càng được phát huy. Trong hai cuộc kháng chiến và trong công cuộc xây dựng hòa bình đã sản sinh ra nhiều anh hùng, dũng sĩ, nhiều nhà văn hóa tiêu biểu mà tên tuổi của họ gắn liền với những chiến công của dân tộc, của đất nước.

              Chúng tôi sinh ra, lớn lên trên miền quê ấy. Tuổi thơ đầm mình trong dòng nước đỏ phù sa của sông Hồng với những buổi chăn trâu, cắt cỏ sớm sớm chiều chiều, mang bao kỉ niệm vui buồn của một thời thơ bé. Chiều chiều trong tiếng sáo diều vi vu trên những cánh đồng lộng gió khi hoàng hôn dần tắt rong ruổi đưa từng đàn trâu về ngõ xóm yên bình.

              Ở đồng quê nghèo khó đó, kỉ niệm đan vào trong nỗi nhớ mênh mang để khi lớn lên, xa quê không thể nào quên được. Hình bóng quê hương là những gì còn lại trong kí ức để dù có đi đâu, về đâu, nơi quê cha đất tổ còn mãi trong lòng những đứa con xa.

               Mảnh đất nghèo đã nuôi lớn chúng tôi, đã nân bước những đứa con trên mỗi chặng đường đi tới, vươn xa trong cuộc hành trình không bao giờ ngơi nghỉ của cuộc đời để chiếm lĩnh những đỉnh cao trí tuệ, tới những chân trời mơ ước của tương lai, tới mọi miền đất nước.

              Gần 40 năm trước, chúng tôi, những đứa con của mẹ đã chắp cánh bay đi. Đứa lên đường nhập ngũ vào đội quân trùng trùng điệp điệp của cả dân tộc hành quân ra chiến trường giết giặc, thề rửa hận cho quê hương đất nước để làm nên một 30 tháng 4 chói ngời sắc đỏ; đứa xung phong vào công trường nhà máy sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội; đứa ra nước ngoài học tập để sau này cống hiến nhiều hơn cho quê hương. Hàng trăm, hang ngàn những đứa con của mẹ, của quê hương đã tung cánh bay đi từ mảnh đất nghèo khó đó và cho đến hôm nay đã trưởng thành. Nhiều người con qua những tháng năm rèn luyện, học tập, phấn đấu không mệt mỏi đã trở thành những cán bộ lãnh đạo trong quân đội cũng như các cơ quan dân chính Đảng, xứng đáng với quê hương, với niềm tin son sắt một dạ thủy chung sâu nặng.

            Bốn mươi năm ra đi nay trở lại quê nhà, bờ tre, mái rạ và kỉ niệm bỗng chốc lại ùa về trong tiềm thức không bao giờ phai nhạt. Lòng bồi hồi lại nhớ kỉ niệm xưa bến nước, bờ đê, sân đình, bóng mẹ và những người thân yêu nhất. Những bạn một thời chăn trâu cắt cỏ nay đã thành cụ, thành ông, ôn lại những kỷ niệm xưa lòng bùi ngùi xúc động. Ngồi bên nhau nhớ lại chuyện xưa ai còn ai mất một thủa thiếu thời để làm nên dáng đứng hôm nay cho quê hương.

             Ôi quê hương, ta có lỗi với Người nhiều lắm, trong lòng ta ngân lên câu thơ năm nào ai viết. Xin một lần tạ lỗi với quê hương, xin ngân lên những câu thơ gan ruột để tỏ lòng thành kính với đất mẹ yêu thương:

“ Tôi ngàn lần có lỗi với quê

Bởi chưa khôn bao giờ một cõi

Tre cứ xanh và sông xa gió thổi

Tôi nao lòng vì thế quê ơi



Trải bao nhiều vận đổi sao dời

Vẫn nguyên vẹn chút tình đau đáu

Đói lả bờ tre dáng người quê tần tảo

Mẹ đi chợ x among mãi chưa về…”

            Vâng, chúng tôi những đứa con của mẹ, của quê hương sinh ra, lớn lên một thời chiến tranh, gắn chặt số phận của mình từng phút từng giờ với mảnh đất quê hương nghèo khó và anh dũng đó. Thế hệ chúng tôi lớn lên, trưởng thành và ý thức được trách nhiệm với mảnh đất mà mình đã được sinh ra.

           Tôi nhớ, những năm chống Mỹ, tuổi học trò của chúng tôi gắn liền túi sách, bong băng với mũ rơm trên đường đi học. Tuổi thơ của chúng tôi chìm trong tiếng bom gần đạn rú, thèm được một phút yên bình và mơ ước có bàn, có ghế để ngồi học cũng như buổi tối được thắp đèn dầu mà không sợ máy bay Mỹ bất ngờ tập kích.

            Gần 40 năm đã trôi qua, tôi mang hình bóng những người con của quê hương, hình ảnh những người thầy, người cô mến yêu đi suốt những chặng đường của mình; qua những năm tháng học sinh, trở thành người chiến sĩ… Hình ảnh không thể phai mờ đó đã nâng bước tôi đi, giúp tôi đứng vững trên vị trí của mình với niềm tự hào thiêng liêng nhất.

            Mùa xuân này trở lại quê hương, trong tôi bồi hồi xao xuyến. Những kỉ niệm xưa của một thời tuổi thơ cứ nhắc mãi về những người con của đất mẹ. Chúng tôi đã chiến đấu không tiếc thân mình cho quê hương, đất nước. kí ức với quê hương còn cháy mãi, cháy mãi không bao giờ tắt như tháng mười rực lửa cho những người đang sống, cho nên các thế hệ tiếp sau vững bước đi lên xây dựng quê hương, đất nước mạnh giàu.

Đại tá Nguyễn Hữu Na

Bộ Tổng Tham mưu Q ĐND Việt Nam


ĐÔI ĐIỀU CẢM NGHĨ VỀ QUÊ HƯƠNG THẠCH ĐÀ

             Tự hào là người con của quê hương Thạch Đà, dù xa quê, dù ở cương vị nào “ dù đi đâu, dù xa cách bao lâu” mỗi người con quê hương vẫn hướng về cội nguồn nơi có dòng sông Hồng mang nặng phù sa bồi đắp cho quê nhà ngày càng màu mỡ, để con sông “ bên lở, bên bồi” với những bãi lúa, ruộng ngô trổ bông ngày càng trĩu hạt.

            Thạch Đà, Mê Linh, Vĩnh Phúc và hiện nay là Thạch Đà, Mê Linh, Hà Nội, dù tên tuổi, địa danh có thể thay đổi, dù năm tháng qua đi và dù thời gian không quay trở lại, nhưng quê hương trong ký ức mỗi con người không thể thay đổi, bởi con người chỉ có một quê hương và “ chỉ một mà thôi”.

            Thạch Đà, nơi tôi sinh, tôi làm sao quyên được, ngày tôi sinh, tôi làm sao quên được “ Ngày tôi sinh – là một ngày đau khổ” vì bố ốm và các chú đã đi Nam, mẹ chưa già nhưng mái tóc đã phôi pha. Tôi lớn lên trên quê hương Thạch Đà còn nghe rõ tiếng bom của giặc Mỹ, tôi nhớ mãi năm 1968 khi đang tập đọc Bố bắt xuống hầm ngay, cũng năm đó tôi nhớ chú ruột chào Bố tôi để đi Nam và từ đó chú đã không bao giờ trở về. Chiến tranh đã qua đi nhưng những kỷ niệm về một thời chống Mỹ tôi làm sao có thể quên được, các chú, các anh đã ra đi không bao giờ trở lại, để lại trong tôi ký ức cuộc đời, từ hình ảnh con để “ Bối” với “ Lạch Trong” “ Lạch Ngoài” của sông Hồng là Thôn 4 quê tôi, “ hai cây gạo” của “ đình ngoài” nay đã mất, nhưng “ ngõ nhỏ, xóm nhỏ , nhà tôi ở đó, đêm nằm nghe tiếng sóng sông Hồng thở than”, “ đêm nằm nghe tiếng gà gáy của Hồng Hà, Bá Giang” và những ngày tôi lang thang, tôi mới hiểu tâm hồn người Thạch Đà, mộc mạc thôi mà sao tôi bồi hồi, mộc mạc thôi mà bang khuâng nhớ mãi, tuổi thơ đã qua đi không trở lại, giờ ra đi mới thấy lòng tiếc nuối, những kỷ niệm của một thời nông nổi, cứ thôi thúc hoài, khắc khoải nơi trái tim”. Tôi muốn lấy lời thơ “ Nơi tôi sinh – Hà Nội” để diễn tả tình cảm của tôi với quê hương nhưng chưa đủ. Tôi vẫn mong một ngày trở về quê nhà, dù lặn lội, bôn ba nơi đất khách quê người, dù nguy nga tráng lệ như Châu Âu, Châu Úc nhưng không làm tôi quên được quê nhà, nơi có mẹ già tần tảo sớm hôm với “ hạt thóc chia đều, dẫu no dẫu đói, vai mẹ lại gầy gánh gạo nuôi con”. Những ngày tôi đi xa tôi càng hiểu quê nhà, nơi con sông Hồng những mùa lũ, rồi bên lở, bên bồi, con sông bây giờ không rộng, không sâu và không còn song dữ như ngày tôi còn nhỏ, nhưng nó lặng lẽ trở nặng phù sa bồi đắp cho quê nhà rộng mãi, như người Cha tôi không còn nữa, nhưng bồi đắp cho tôi một niềm tin, một lý trí, một tình cảm. Tôi nguyện ghi sâu trong lòng lời dạy của đạo Phật “ nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ”, “ Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha”.

        Tự hào là người con quê hương Thạch Đà, dù xa quê, dù ở cương vị nào, mỗi người con quê hương đều hướng về cội nguồn với mong muốn xây dựng một quê hương “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” như Nghị quyết của Đảng đã đề ra. Hàng năm những người con của quê hương Thạch Đà ở khắp nơi trên mọi miền của tổ quốc, trong đó có những người con Thạch Đà ở Hà Nội luôn hướng về quê nhà với niềm tin và hy vọng quê nhà phát triển bền vững trong xu thế hội nhập, đứng vững trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phát triển bền vững trên cơ sở nguồn lực sẵn có, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thạch Đà thấm nhuần hơn nữa lời dạy của Bác “ Vì lợi ích mười năm trồng cây/ Vì lợi ích trăm năm phải trồng người”, mỗi gia đình là một vườn ươm đạo đức, nhân cách và lối sống cho thế hệ trẻ, giữ gìn bản sắc dân tộc “ lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều”. Chính quyền thực sự “ vì dân, do dân” và phải “ lấy dân làm gốc” như Bác Hồ đã dạy. Nhân dân Thạch Đà phát triển kinh tế trên cơ sở ổn định về chính trị, giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái không làm hủy hoại và xói mòn truyền thống quê hương, không làm hủy hoại và xói mòn truyền thống quê hương, không làm ảnh hưởng đến các thế hệ con cháu chúng ta. Phát triển kinh tế gắn liền với giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức cách mạng để xứng đáng là quê hương có truyền thống cách mạng của Hai Bà Trưng quật khởi, kiên cường. Phát triển kinh tế trên cơ sở đa ngành nghề, bởi vậy cần khôi phục một làng nghề truyền thống ( may mặc, ươm tơ, dệt lụa), phát huy tiềm năng và tiềm lực của trên 250 doanh nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ của quê hương Thạch Đà để làm “ đầu tàu” gương mầu cho “ con tàu” Thạch Đà cập bến vinh quang và hạnh phúc.
Hà Nội, tháng 4/2012

TS. Đỗ Viết Minh


NHÀ DOANH NGHIỆP TƯƠNG LAI HỘI NHẬP THẾ GIỚI!

         “ Tự tin năng động và hóm hỉnh là những ấn tượng đầu tiên mà Nguyễn Thị Bích Tâm đã để lại cho Ban giám khảo”. Đó là nhận xét của Báo Lao động số ra ngày Thứ sáu, mồng 6 tháng 6 năm 2008 về Nguyễn Thị Bích Tâm, con bà Nguyễn Thị Tâm Toán trong phần thi hùng biện ở vòng chung kết cuộc thi “ nhà Doanh Nghiệp Tương Lai HSBC, do ngân hang Châu Á HSBC tổ chức ở Thành phố Hồ Chí Minh, mùa hè năm 2008. Trong cuộc thi này Bích Tâm cùng với người bạn của mình nhận cúp vô địch và Giải Quả Cầu Vàng.

        Xin giới thiệu một bài viết ( trong nhiều bài viết) về Bích Tâm, một trong những gương mặt trẻ xuất sắc của quê hương.

        Qua hai lần liên tiếp tổ chức cuộc thi Nhà Doanh Nghiệp Tương Lai, HSBC tại Việt Nam khẳng định rằng các bạn trẻ Việt Nam có những ý tưởng, kế hoạch tốt trong kinh doanh và đủ tự tin để hội nhập quốc tế.

        Tự tin, năng động và hóm hỉnh là những ấn tượng đầu tiên mà Nguyễn Việt Hà Phương và Nguyễn Thị Bích Tâm đã để lại cho Ban giám khảo, các đội dự thi và tất cả khan giả qua phần thi hùng biện ở vòng thi chung kết cuộc thi “ Nhà doanh nghiệp tương lai HSBC 2008”.

        Nhìn dáng vẻ nhỏ nhắn , mảnh mai của hai cô gái trẻ, có ai nghĩ rằng họ đã từng chinh phục đỉnh Phan –Xi –Pan, nóc nhà của Đông Dương, điểm đầu cực Bắc Việt Nam- Lũng Cú và “ để lại dấu chân tại hơn 10 tỉnh đồng bằng và miền núi phía Bắc. Mục tiêu tiếp đến cho cuộc chinh phục sẽ là các điểm cực Tây Bắc của đất nước . Ngoài ra hai bạn trẻ này còn mong muốn tìm hiểu, học hỏi kiến thức mới, kết nối bạn bè, hội nhập thế giới nên kế hoạch “ viễn du” của hai bạn còn ấp ủ cả chuyến đi Tây Tạng và Châu Âu.

         Là đôi bạn thân gắn bó với nhau từ lúc học cấp 3 cho đến khi lên Đại học, Phương và Tâm tuy học hai khoa khác nhau tại Trường Đại học Hà Nội ( khoa Quản trị Kinh doanh và khoa Quốc tế học) nhưng vẫn hay cùng nhau xách ba lô đi du lịch “ bụi”. Sau mỗi chuyến đi thì vốn kinh nghiệm, kỹ năng cho việc đi du lịch “ bụi”, du lịch mạo hiểm của Phương và Tâm càng phong phú khiến hai bạn cùng nảy sinh ra ý tưởng về các khóa huấn luyện, đào tạo kỹ năng sinh tồn trong những tình huống nguy hiểm, khẩn cấp cho những chuyến du lịch mạo hiểm hay những chuyến đi đến vùng thiên nhiên hoang dã.

        “ Khi đi du lịch mạo hiểm, luôn có những khó khăn, tình huống bất ngờ xảy ra. Nếu người du lịch được trang bị những kiến thức, kỹ năng cần thiết, đôi khi rất đơn giản nhưng hữu dụng như đốt lửa sưởi ấm dưới trời mưa hay tìm nơi trú ẩn trong rừng… chuyến đi sẽ an toàn và thú vị hơn rất nhiều”. Tâm cho biết: “ Cái chúng em muốn làm về lâu về dài không chỉ phục vụ cho đi du lịch mà cái chúng em thật sự mong muốn là có thể bắt tay cùng các doanh nghiệp thiết kế các chương trình huấn luyện cho nhân viên, hay phối hợp với các tổ chức đưa chương trình huấn luyện này vào trường học phổ thông góp phần vào việc phát triển tính cách của thanh thiếu niên từ 12 -18 tuổi”.

Tự tin hội nhập

           Những ấp ủ và mong muốn của đôi bạn Phương – Tâm dần định hình rõ nét, cụ thể và chuyên nghiệp hơn sau mỗi vòng thi. Lấy tên gọi “ Free Arrows”, tức là “ Những mũi tên tự do” luôn lao về phía trước , Phương và Tâm đã lần lượt vượt qua hơn 170 ý tưởng kinh doanh khác để trở thành đội vô địch của cuộc thi và “ Những mũi tên tự do” này lại vượt qua biên giới Việt Nam để tham dự vòng chung kết Châu Á cuộc thi Nhà doanh nghiệp tương lai HSBC tại Hồng Kông cùng với các đội vô địch từ các Quốc gia khác cho giải thưởng lớn trị giá 100.000 đôla Hồng Kông vào trung tuần tháng 6.

            Giờ đây, với những kỹ năng, kinh nghiệm, kiến thức và sự cọ xát mà hai em có được sau 5 tháng theo đuổi cuộc thi và nhất là với thành tích giải vàng tại Việt Nam, Phương và Tâm sẽ tự tin hơn để thể hiện mình trong cuộc thi khu vực, và coi đây là một thử thách nho nhỏ cho những nhà doanh nghiệp tương lai trong quá trình hội nhập với thế giới. Tâm cho biết đội sẽ đem “ lửa:, lòng đam mê du lịch, đam mê kinh doanh đến với vòng chung kết Châu Á.

            Ông David Morton, Phó tổng giám đốc HSBC tại Việt Nam, cũng là thành viên trong Ban giám khảo cuộc thi, ghi nhận về đội đạt giải vàng: “ Đây là dự án nổi trội và xứng đáng với danh hiệu vô địch bởi tính khả thi cao, thân thiện với môi trường cũng như cách trình bày rất thuyết phục. Ngoài ra, với sự nhiệt huyết và đam mê của tuổi trẻ, tôi tin các em sẽ tiến xa tại vòng thi chung kết Châu Á lần này”.

MỘT THỜI ĐỂ NHỚ

              Năm 1982, tốt nghiệp Đại học Công an Vũ trang ( nay là Học viện Biên Phòng), tôi được cấp trên điều giữ chức Đồn phó quân sự Đồn Biên phòng 314 – Mường Nhé, Mường Tè, Lai Châu. 5 năm học tập, rèn luyện trong môi trường lực lượng vũ trang, tôi hiểu những vất vả gian khổ và cả những hiểm nguy mà người lính công an vũ trang sẽ gặp phải. Nhưng tuổi trẻ vốn lãng mạn, thích phiêu lưu, kể cả đi bộ vòng quanh thế giới, đâu Tổ quốc cần là đến. Sức vóc thế này lại có đồng bào, đồng chí. Sá gì! Thế là từ biệt gia đình, quê hương lên đường đi Tây Bắc trong sự háo hức của tuổi trẻ. ‘ Đường lên Mường Lễ bao xa / Trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh”. Câu ca dao thủa nào học trong môn địa lý lại vang lên như mời gọi, như thách thức….

             Hơn nửa tháng trời độc hành cùng hỏa xa Phúc Yên đi Phố Lu, cùng ô tô Phố Lu đi Lai Châu, cuối cùng thì hành quân bộ trèo đèo, lội suối gần chục ngày từ thị xã Lai Châu đến Đồn Biên phòng 314. Cuộc hành trình đầu đời quân ngũ vượt hơn 800km lên nơi đóng quân: Đồn Biên phòng 314 Mường Nhé – Mường Tè – Lai Châu – vùng cực Tây của Tổ quốc, giáp tỉnh Phong Xa Lỳ, nước bạn Lào và tỉnh Vân Nam – Trung Quốc. Nhìn lại chặng đường thử thách đầu tiên lòng thấy tự hào, không hổ thẹn với lớp cha anh”… ngày đên ra tiền tuyến/ Mấy từng mây gió táp mưa to/ Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ/ Đèo Lũng Lô anh hò, chị hát …”. Đi ô tô từ Phố Lu đến Lai Châu qua bao núi rừng trùng điệp, đèo cao, vực sâu mới thấy cái ông Bùi Minh Quốc tả đúng quá: “ Xe chạy nghiêng trèo dốc núi/ Lên miền Tây vời vợi nghìn trùng …”. Ngồi trên ô tô thấy rất rõ cái cảm giác xe chạy “ nghiêng nghiêng” thật. Cứ như là sắp lật xuống vực sâu.

           Tôi ở Lai Châu từ năm 1982 đến năm 1988, thời gian đó biên giới phía Bắc còn rất khó khăn, ác liệt. Đó là 6 năm với rất nhiều kỷ niệm của thời trai trẻ với biết bao ước mơ, khát vọng. Đồn Biên phòng 314 nằm giữa đại ngàn mênh mông. Ở Mường Tè sợ nhất là mùa mưa. Từ tháng 7 đến tháng 9. Mưa ầm ầm như trút nước. Gió lồng lên, cây cối vặn mình răng rắc. Suối chảy ầm ầm, nước ngầy cuộn đỏ. Mưa dai dẳng qua ngày, qua đêm tưởng như không bao giờ dứt. Theo đài khí tượng thủy văn, lượng mưa ở Mường Tè vào loại cao nhất nước: trên 3200mm. Địa hình, thời tiết ở Mường Tè rất khó khăn, khốc liệt; núi cao, vực sâu, những cánh rừng vắt nhiều như lá, chắc hẳn nhiều người đã từng nghe câu “ Mỏ vắt Quang Lâm, nắng cháy đồi A Pa Chải”. Những chiều đông tê tái, những lòng khe

              Lạnh buốt hay những trưa hè gay gắt trên đồi gianh cháy rụi với những trận gió Lào khô ráp hoặc những trận sốt rét rừng xanh da, vàng mắt không ai là không trải qua. Khó khăn là vậy, thế mà những người lính biên phòng chúng tôi với bộ quân phục xanh màu lá, khẩu sung trong tay, chiến ba lô thân thuộc cùng với tấm lòng trai trẻ hướng về biên giới vẫn ngày đêm tuần tra bảo vệ từng tấc đất biên cương Tổ quốc. Cũng chính những lúc khó khăn, gian khổ ấy mới thấy tình đồng chí, đồng đội thật sâu nặng, bền chặt, gắn bó, keo sơn; mới thấy hết lòng thương yêu nhau như anh em ruột thịt trong nhà.

             Mường Tè có nhiều dân tộc: Người Mông, người Thái, người Hà Nhì, người La Hủ… Bà con dân tộc sống rất chân tình và rất yêu quý các anh bộ đội Cụ Hồ. Chinh những năm tháng ấy, tôi mới thấy hết ý nghĩa câu “ Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là an hem ruột thịt”. Các bà mẹ coi chúng tôi như con trong nhà, còn các em gái thì rất “ mến yêu” các chú bộ đội.

              Ở Mường Tè, vui nhất là vào mùa xuân. Mùa Tết. Ngoài Tết Nguyên đán – cái Tết chung của cả nước, mỗi dân tộc lại có một cái Tết của riêng mình. Những ngày Tết của đồng bào Thái Tây Bắc thật vui. Cứ tối đến là tiếng trống hội xòe lại giục giã, những người con gái Thái 18 -20 váy lụa, áo cóm lại cùng những người lính trẻ xoắn xuýt quanh vòng xòe. Hội xòe suốt từ đêm giao thừa tới 15 tháng giêng mới kết thúc. Những đêm như thế lòng tôi lại xốn xang nhớ quê, nhớ làng, nhớ gia đình… Nhớ hội làng vào ngày mồng Mười tháng Tám Âm lịch. Nhớ đám rước liệu đông vui… Những lúc như thế , giữa đông vui nhộn nhịp của ngày hội trong lòng như có một khoảng trống mênh mông rất khó tả…

            Tây Bắc đẹp nhất là vào mùa xuân. Khí hậu mát mẻ trong lành. Tháng Ba hoa ban nở trắng rừng. Bạt ngàn là hoa ban. Đẹp vô cùng. Hoa ban trắng tinh khôi, kéo dài thành một vệt rừng rộng mênh mông, dài bất tận. Tôi thường đứng ngay ngất ngắm nhìn những rừng hoa ban trong sương mai tinh khiết như thế. Thú vị hơn là giữa rừng hoa ban thanh khiết, trắng ngần bỗng đột ngột xuất hiện một cây hoa gạo giữa thảm lụa trắng, mềm mại của hoa ban, đẹp đến mê hồn. Ngắm hoa gạo giữa đại ngàn, lại nhớ hai cây gạo cổ thụ quê nhà trên triền đê cạnh Đền Bà ngay đầu thôn Bốn của tôi. Hai cây gạo làng tôi thật hùng vĩ. Nghe nói tuổi đời có đến bốn, năm trăm năm. Tôi chưa thấy hai cây gạo nào đẹp hơn. Có vẻ ích kỷ quá chăng? Hay vì quá yêu quê hương mà nói liều như vậy! Nhưng nó đẹp và hùng vĩ thật. Đứng dưới gốc tôi phải ngửa đến gãy cổ mới nhìn thấy ngọn. Ở trên đó rất nhiều sáo lang, sáo nâu về làm tổ. Còn ở xa, nhiều người bảo, cứ qua đò Chèm, lên đê là đã trông thấy ngọn hai cây gạo làng mình. Ai là khách lạ, hỏi thăm về làng Đợ, người chỉ đường bảo cứ thẳng đường này nhìn lên trời thấy hai cây gạo thì đó là Đợ, không phải hỏi thăm gì nữa. Tháng Ba về, hoa gạo đỏ cả vùng trời. Những bong gạo năm cánh, đỏ tươi hướng lên trời cao. Người ta bảo trai gái yêu nhau có hoa gạo chứng giám thì hạnh phúc bền vững . Tôi không biết có đúng không nhưng lũ trẻ con chúng tôi nhặt hoa gạo xếp thành chữ, thành hình trái tim… chơi đùa, la hét cùng lũ sáo đen, sáo nâu… thì thật là hạnh phúc . Tuổi thơ của thế hệ chúng tôi là những năm tháng chiến tranh ác liệt, thật dữ dội và cũng thật nhiều kỷ niệm. Bây giờ, mỗi lần về quê khồn còn được thấy hai “ Cụ” gạo một thời như là một biểu tượng của làng, lòng tôi lại thấy nao nao, trống vắng. Những lúc như thế, mấy câu thơ của thầy giáo tôi lại vang lên: “ Cụ ” gạo không còn nữa/ Chắc là bay về trời/ Bên Đền cây gạo “trẻ”/ Lại đỏ trời tháng Ba như một lời nhắn nhủ “tre già thì măng mọc” khiến tôi thấy ấm lòng trở lại.

             Hơn 30 năm trong quân ngũ. Tôi chỉ ở Lai Châu 6 năm. Nhưng đó là 6 năm đầy ắp kỷ niệm. Kỷ niệm êm đềm và vui nhất là tôi gặp được ở Tây Bắc một nửa của mình. Tôi đã gặp đôi “ mắt đen hạt nhãn cười tinh nghịch” ấy ở Lai Châu. Như các cụ nói: ấy là duyên số. Tôi không biết có hoa gạo quê tôi và hoa gạo Tây Bắc chứng kiến không nhưng mối tình của chúng tôi thật dài, thật đẹp; khi lên Lai Châu “ bà xã” tôi mới học lớp 10, thế rồi gặp nhau yêu nhau rồi thành vợ thành chồng thì không niềm vui nào, hạnh phúc nào sánh được. Tôi cảm ơn quê hương Thạch Đà đã sinh ra, đã nuôi tôi khôn lớn. Tôi cảm ơn Tây Bắc đã nâng bước tôi đi, đã cho tôi tình yêu và hạnh phúc. Hơn 20 năm sau tôi có dịp trở lại Mường Tè, những bà con người Thái, người Mông, người La Hủ, người Hà Nhì… lại giang tay đón tôi như đón người thân sau mấy chục năm xa cách.

Tác giả: Đại tá Nguyễn Tiến Thắng

Phó Chủ nhiệm Chính trị Bộ đội Biên phòng











Để tổ chức và quản lý tốt lễ hội truyền thống trên địa bàn huyện Mê Linh



Lại một mùa xuân mới đến với dân tộc ta - Xuân Quý Tỵ - , xuân của đất trời, xuân của lòng người, xuân của sự đâm chồi nảy lộc, đơm hoa kết trái.

Nói tới mùa xuân là nói tới lễ hội. Cũng như ở nhiều địa phương khác, lễ hội truyền thống trên địa bàn huyện Mê Linh thường được tổ chức ở các di tích như: đình, chùa, đền, miếu.... Hiện nay, toàn huyện còn lưu giữ được 179 di tích (trong đó có 27 di tích lịch sử - Văn hoá Quốc gia, 42 di tích lịch sử- Văn hoá cấp tỉnh, thành phố). Lễ hội truyền thống của các địa phương trên địa bàn huyện được hình thành từ rất sớm và nội dung cũng rất đa dạng, phong phú. Không kể hàng chục hội tòng quân, hội xuống đồng, hội mừng công, hội văn hoá - thể thao, hội tôn giáo. Gần 3 thập kỷ qua, các địa phương đã phục hồi và phát triển gần 100 lễ hội truyền thống thu hút hàng nghìn dân địa phương và khách thập phương tới dự như: Lễ hội Đền Hai Bà Trưng, lễ hội chùa Chi Đông, lễ hội đình Phú Mỹ, lễ hội đền Thiên Cổ, lễ hội Tổ Đình Trung Hậu, lễ hội đình chùa Bồng Mạc, lễ hội đình Bạch Trữ, lễ hội đình Văn Lôi, lễ hội Đền Đông Cao ...
               Lễ hội diền ra ở các di tích càng làm tăng thêm vẻ tôn nghiêm, giá trị thẩm mỹ được nâng cao, tư tưởng nhân văn và triết lý của tôn giáo càng được vun đắp thêm. Khi không có sinh hoạt lễ hội, di tích vẫn mang vẻ đẹp tự thân nhưng khi có lễ hội, truyền thống tốt đẹp về lịch sử văn hoá được chuyển từ dạng tĩnh sang dạng động, tạo thành  “thời điểm thiêng” mang sức truyền cảm và giáo dục cao. Di tích và lễ hội gắn bó hữu cơ, mật thiết tạo nên giá trị tinh thần và vật chất lớn lao. Ở mỗi lễ hội có nhứng nét đặc trưng riêng biệt, song nét chung nhất là đến với lễ hội mọi người đều cầu mong những điều tốt lành, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, mọi người được ấm no, hạnh phúc, đất nước được bình yên, ngày một phát triển. Lễ hội diễn tả lại những nét đặc trưng về lịch sử văn hóa của dân tộc, địa phương, nhắc nhở mọi người luôn ghi nhớ và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, cũng là nơi mọi người được giải tỏa về tư tưởng, tâm linh, được tham gia vui chơi giải trí, mong cho bản thân và gia đình được nhiều may mắn trong cuộc sống. Thông qua các hoạt động lễ hội cũng hướng người dân đến với Chân - Thiện - Mỹ.
Lễ hội truyền thống bao gồm 2 phần: Phần lễ và phần hội.
PHẦN LỄ: Bao gồm các yếu tố phát sáng của cuộc sống, trong đó mọi thứ đều được thăng hoa gồm cả vô thức và tâm linh của mỗi người, của cộng đồng trong một thời điểm, thậm chí cả trong một giai đoạn lịch sử kéo dài.Phần lễ gồm các bước sau:
Lễ mộc dục: mộc dục có nghĩa là tắm gội. Đây chính là lễ tắm tượng. Nếu không có tượng thì tắm gội thần vị. tắm ở đây chỉ có ý nghĩa tượng trưng; tức là dùng khăn sạch bằng vải đỏ nhúng nước tinh khiết lau sạch bụi rồi lại lau bằng nước thơm như nước ngũ hương. Có nơi bắt đầu lễ Mộc dục từ lễ rước  nước. Nước có thể lấy ở giữa dòng sông hoặc từ một giếng sạch ở gần làng và người ta dùng nước đó để tắm tượng hoặc tắm thần vị.
Lễ tế gia quan: Lễ tế gia quan có nghĩa là lễ đội mũ, mặc áo cho thần tượng hoặc vị thần. Sau lễ này phải có một tuần tế rồi hôm sau mới rước thần tượng hoặc vị thần đó từ miếu về đình. Nơi nào không có miếu thờ riêng thì các việc này làm tại chỗ (tại đình).
Rước lễ: Lễ rước chính là cuộc tiếp dẫn thần tượng bằng kiệu, cờ quạt, tàn, tán lọng cùng các đồ bát bửu, chiêng trống, các nghi thức rước như trang phục cho các chức sắc và quân kiệu sao cho phù hợp với nghi thức từng vị thần được thờ, việc phối khí giữa chiêng, trống, tức phần âm nhạc cũng không thể tuỳ tiện. Việc tuyển lựa quân kiệu cũng không đơn giản. Thông thường quân kiệu chọn trai tráng trong làng; trước hết phải là con các nhà lương dân, không có tì vết gì về đạo đức như trộm cắp, rượu chè, cờ bạc... lại phải là người có sức khoẻ, không có khuyết tật gì về hình thể và phải hết lòng tuân phục sự sắp đặt của Ban tổ chức lễ hội.
Đại tế: Thần vị là thần tượng đã rước về đình rồi dân làng dâng đồ lễ và Hội tư văn làm một tuần tế long trọng gọi là đại tế.
Lễ túc trực: Sau cuộc đại tế làng phải cử các quan viên, chức sắc để hương đăng suốt ngày đêm trong thời gian hội và hàng ngày đều có một tuần tế cho tới khi tan hội.
Phần rước sách tế lễ này chính là linh hồn của hội. Nếu không có các cuộc tế lễ rước sách với các nghi thức vừa trang nghiêm kính cẩn, vừa huyền bí thiêng liêng thì hội không thể có cốt tâm linh của cộng đồng và một niềm tin thần thánh. v Đó chính là bí quyết để giữ gìn hội qua trường tồn lịch sử mà không cần có quy ước thành văn nào cả.
PHẦN HỘI: Đây là phần vui chơi cộng cảm của cộng đồng, với đủ các trò vui mà khả năng dân làng có được. Các trò văn nghệ như hát chèo, hát cửa đình, hát đúm, hát xoan, hát quan họ,...
Các trò mang tính thượng võ như: Đấu vật, đấu võ, kéo co, bơi, đánh đu, ... các trò khéo léo chân tay như dệt vải, thổi cơm, làm bánh, ... hoặc thi các sản phẩm nông nghiệp như trâu, bò, lợn béo, quả ngon,... rồi các trò thả chim, chọi gà, đánh cờ người...
Ngoài các trò chơi còn có phần ăn uống cộng cảm, tức là phần xôi lợn, lễ thần xong đem mời mọi người cùng ăn uống vui vẻ. Chính phần này làm đậm đà thêm ý nghĩa của hội. Đây không chỉ là việc ăn uống thuần tuý, mà là dịp cho mọi người trao đổi tình cảm sau các vụ mùa làm ăn vất vả. Và đây cũng là dịp trai gái nảy nở tình cảm. Ăn uống cộng cảm phải được xem là một phần nội dung của hội.
Phần hội tức là phần vui chơi cộng cảm, sẽ làm tăng thêm giá trị của phần lễ. Hai phần bổ sung cho nhau và không thể thiếu phần nào. Nếu như phần lễ làm cho mọi người cấu kết tâm linh thì phần hội làm cho cuộc sống cộng đồng  thêm phần thăng hoa. Chính vì vậy, nó đi vào ký ức của mọi người và luôn được củng cố bằng các ngày hội cả năm sau nữa... nó cũng được củng cố bằng các ngày hội  của các làng xã khác mà mỗi cá nhân đều có quyền tham dự bình đẳng như một thành viên bạn bè bởi các hội chạ.
Để tổ chức, quản lý và chỉ đạo lễ hội cho phù hợp với thuần phong mỹ tục, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và đưa sinh hoạt lễ hội ở huyện vào nề nếp, mùa lễ hội xuân Quý Tỵ năm nay các địa phương tổ chức lễ hội phải nghiêm chỉnh thực hiện tốt Quy chế lễ hội và Luật di sản văn hoá.
Chỉ được mở lễ hội, được tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng và tổ chức các hoạt động khi được cấp có thẩm quyền cho phép. Các địa phương tổ chức lễ hội phải thành lập Ban tổ chức lễ hội. Lễ hội cần được tiến hành trang trọng theo nghi thức truyền thống, không áp đặt chủ quan, tránh kéo dài, rườm rà, đảm bảo tính lịch sử có ý nghĩa giáo dục cao. Trong hội có tổ chức rước kiệu bao gồm: rước bằng, sắc trên kiệu  văn (sắc phong của các triều vua, bằng công nhận di tích của Bộ văn hoá - thông tin và của UBND tỉnh, Thành phố; rước Thần, Thành Hoàng trên kiệu Bát cống (Tượng hoặc long ngai, bài vị ở đình, đền). Riêng ở chùa rước bát bửu của đạo Phật. Tổ chức rước kiệu phải đúng nghi thức và phù hợp với từng loại hình di tích, tôn giáo. Thời gian, địa điểm, phải bố trí hợp lý với điều kiện của từng địa phương.
Không tế nữ quan ở đình. Văn tế và các hiệu lệnh trong buổi tế có thể dịch ra tiếng phổ thông để mọi người dân hiểu.
       Ngoài nghi thức truyền thống, cần tổ chức tốt lễ dâng hương do đại diện của chính quyền làm chủ lễ, điều đó thể hiện sự quan tâm va tôn trọng của chính quyền đối với đời sống văn hoá và phong tục của nhân dân. Các địa phương có lễ hội diễn ra ở những nơi có đền thờ (dù là nhân thần, thiên thần hoặc danh nhân văn hoá) cần biên soạn tài liệu nói rõ về thần phả (tức nguồn gốc thần được thờ) và thần tích (công trạng mà thần đã đem lại cho dân, cho nước) để mọi người trong địa phương đều được biết. Khi công tích cũng như nhân cách của thần được xác định sẽ là niềm tự hào của mỗi người dân địa phương. Và là cơ sở giáo dục truyền thống cho lớp trẻ hướng về cội nguồn, xác định trách nhiệm phát huy truyền thống mà tổ tiên đã tạo lập.
Các di tích - thắng cảnh không chỉ có giá trị lịch sử, văn hoá, kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ mà còn có cảnh quan vô giá. Do đó việc gây ý thức bảo vệ, tôn tạo di tích và cảnh quan, môi trường để lưu giữ được lâu dài là trách nhiệm của tất cả người dân. Việc cho phép mở rộng và duy trì lễ hội truyền thống tức là Nhà nước tạo điều kiện để nhân dân giữ gìn thuần phong mỹ tục. Bởi vậy, không được lợi dụng lễ hội để hoạt động mê tín dị đoan như lên đồng phán truyền, xóc thẻ, bói toán, truyền bá sách truyện mê tín dị đoan và các ấn phẩm trái phép khác. Không được khoán thu thầu hội. Trang phục trong ngày hội phải lịch sự, văn minh, hài hoà giữa truyền thống với hiện đại. Hội cũng như Lễ hội truyền thống đều thể hiện tính vui chơi cộng cảm của địa phương trong không khí giao hoà giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ. Không được lợi dụng lễ hội để kinh doanh. Việc tổ chức các trò diễn, trò chơi trong hội phải quây gọn khu vực các trò chơi đó để bán vé cho  bất kỳ ai có nhu cầu giải trí. Khuyến khích khai thác các hình thức kinh doanh văn hoá như các sản vật, sản phẩm nghề độc đáo của địa phương cho khách đến dự hội nhằm góp thêm kinh phí cho hội.
Chính quyền và ngành văn hoá thực hiện chức năng quản lý Nhà nước. kiểm tra, uốn nắn những lệch lạc trong quản lý, tổ chức và chỉ đạo các nơi có lễ hội. Đảm bảo các ngày lễ hội an toàn, gây được không khí vui tươi lành mạnh, có tác dụng giáo dục truyền thống yêu nước và văn hoá tốt đẹp của địa phương.





Vinh danh 10 gương mặt trẻ tiêu biểu thủ đô 2012



Cô giáo ung thư Nguyễn Khánh Thương, thiên tài piano hay chiến sĩ điều tra Nguyễn Tiến Hải là những gương mặt được vinh danh trong tối qua.

Tối 6/1, trong chương trình “Mừng công năm 2012 – Chào năm mới 2013” do Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên TP. Hà Nội tổ chức, đã vinh danh 10 gương mặt trẻ tiêu biểu của thủ đô.
Lễ vinh danh 10 gương mặt trẻ Thủ đô tiêu biểu năm 2012.
Giải thưởng này nhằm mục đích động viên, cổ vũ và suy tôn những điển hình thanh thiếu nhi tiên tiến trên mọi lĩnh vực, tạo động lực phát triển tài năng trẻ, thúc đẩy phong trào thi đua học tập, sáng tạo trong thanh thiếu nhi thủ đô Hà Nội.
Dưới đây là 10 gương mặt trẻ tiêu biểu được vinh danh trong chương trình tối qua:
Thiên tài piano Phan Thiên Bạch Anh
Cô bé hiện đang là học sinh lớp 5C trường tiểu học Quang Trung (Hoàn Kiếm, Hà Nội), đồng thời em cũng đang theo học hệ trung học 9 năm tại học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
Thiên tài Piano Phan Thiên Bạch Anh. (Ảnh: Dân trí)
Năm 2012, Bạch Anh đạt giải vàng Liên hoan Âm nhạc Quốc tế châu Á tại Hàn Quốc, giải Nhất bảng A cuộc thi Piano quốc tế lần thứ 2, đạt giải thí sinh Việt Nam xuất sắc nhất bảng A, được nhận học bổng Toyota dành cho những tài năng trẻ Việt Nam.
Nghệ sĩ Phạm Đình Dũng
Anh hiện công tác tại Nhà hát Múa rối Thăng Long từ năm 2008 với nhiều thành tích nổi bật. Đặc biệt, năm 2012, anh đã đạt huy chương vàng Liên hoan múa rối quốc tế lần 2 với vở diễn Linh thiêng hai tiếng đồng bào; huy chương vàng Liên hoan nhạc cụ truyền thống các dân tộc Việt Nam với tiết mục độc tấu trống Đêm hội múa rối.
Nghệ sĩ Phạm Đình Dũng.
Ngoài ra, nghệ sĩ còn tham gia biểu diễn thành công nhiều chuyến công tác trong và ngoài nước tại New Zealand, Trung Quốc, Hong Kong… góp phần quảng bá nghệ thuật múa rối của Việt Nam đến với cộng đồng quốc tế.
Vũ Đình Quang Đạt
Chàng trai này hiện là học sinh lớp 12A2 tin, trường THPT chuyên Khoa học Tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội, với 10 năm liền đạt danh hiệu học sinh giỏi, và bảng thành tích dày đặc về bộ môn Tin học, giải Toán trên máy tính.
Năm 2012, Đạt giành được Huy chương Bạc Olympic Tin học quốc tế diễn ra tại Italia, và vinh dự được nhận giải thưởng Hoa trạng nguyên.
Vũ Đình Quang Đạt.
Với niềm đam mê và yêu thích Tin học, Đạt mong muốn trong tương lai được làm lập trình viên thiết kế những phần mềm ứng dụng thông minh mang lại hiệu quả cao.
Thầy giáo khuyết tật Chu Quang Đức
Anh hiện là giáo viên môn Tin học của trường THPT Mê Linh, Hà Nội. Do ảnh hưởng của chất độc màu da cam, gần 30 tuổi, nhưng thầy chỉ cao 1,1m và nặng 27kg. Với quyết tâm và nghị lực, anh đã vượt qua mọi khó khăn để vươn lên trong cuộc sống.
Trong 4 năm học, thầy là người duy nhất của khoa Tin học được nhận học bổng của Hãng Synyno dành cho Sinh viên nghèo vượt khó học giỏi; được tặng giấy khen của thầy hiệu trưởng và là 1 trong 10 sinh viên của khoa Tin học có khóa luận tốt nghiệp đạt điểm 10.
Thầy giáo khuyết tật Chu Quang Đức.
Ngoài giờ lên lớp, thầy còn mở lớp dạy Toán - Tin tại nhà cho gần 40 học sinh trong xóm và các làng lân cận từ lớp 9 đến lớp 12. Với những học sinh hoàn cảnh khó khăn, thầy không thu học phí và tạo mọi điều kiện để giúp đỡ các em cả về vật chất lẫn tinh thần. Kể từ năm 2009 tới nay, mỗi năm lớp học của thầy Đức đều có nhiều học sinh đỗ vào các trường ĐH lớn.
Đại úy Nguyễn Tiến Hải
Anh hiện là đội trưởng Đội điều tra tổng hợp ccông an huyện Sóc Sơn. Trong năm 2012, Đại úy Hải đã xác lập điều tra khám phá 19 băng, ổ nhóm tội phạm hình sự, triệt phá 14 ổ nhóm tệ nạn xã hội trên địa bàn... góp phần vào công tác bảo vệ an ninh trật tự của thành phố.
Đại úy Nguyễn Tiến Hải.
Năm 2012, với những cống hiến của mình, anh đã được chủ tịch nước tặng Huân chương chiến công hạng ba và Bộ trưởng Bộ Công an tặng bằng khen.
Tuyên truyền viên Chử Nhất Hợp
Hiện nay, anh là Chủ tịch Hội thanh niên vận động hiến máu Hà Nội. Trong quá trình công tác, anh đã trực tiếp vận động trên 150.000 lượt người tham gia hiến máu tình nguyện. Đặc biệt, lần đầu tiên, anh là người có sáng kiến tổ chức thành công ngày hội Giọt hồng tri ân 2012 sau 19 năm phong trào hiến máu vào giữa tháng 7, đạt gần 1.700 đơn vị máu và lập kỷ lục xếp hình lá cờ đỏ có ngôi sao vàng ở giữa của gần 4.000 người.
Tuyên truyền viên Chử Nhất Hợp.
Với những đóng góp của mình, Chử Nhất Hợp đã ba năm liền nhận được bằng khen của Bộ Y tế, và nhiều giải thưởng danh giá khác.
Vận động viên Phạm Phước Hưng
Đây là cái tên quen thuộc trong làng thể dục dụng cụ Việt Nam. Anh đã mang về rất nhiều thành tích cho thể thao Việt Nam, với hơn 30 chiếc huy chương vàng cho môn Thể dục dụng cụ.
Vận động viên Phạm Phước Hưng.
Anh cũng là vận động viên giành vé tham dự Olympic mùa hè 2012, đứng thứ 7 giải vô địch thế giới. Phạm Phước Hưng hiện là vận động viên hàng đầu của Thể dục dụng cụ Việt Nam.
Tiến sĩ Võ Trương Như Ngọc
Anh hiện là Phó bí thư Đoàn TN đại học Y Hà Nội, Trưởng bộ môn Răng trẻ em – Viện đào tạo Răng hàm mặt, Phó Giám đốc TT Kỹ thuật cao Răng hàm mặt.
Võ Trương Như Ngọc có thành tích xuất sắc trong quá trình học tập và công tác: Tốt nghiệp loại giỏi ĐH Y Hà Nội, tốt nghiệp Tiến sĩ chuyên ngành nha khoa loại xuất sắc, tốt nghiệp cao học Pháp – Việt Nha khoa phục hồi.
Tiến sĩ Võ Trương Như Ngọc.
Anh đã có 19 công trình và bài báo được đăng trên các tạp chí và nhiều đóng góp, hoạt động vì cộng đồng, nhận được bằng khen của Bộ Y tế về việc đã có thành tích trong quá trình xây dựng và phát triển nhà trường năm 2012
Cô giáo Nguyễn Thị Thương
Cô đang công tác tại ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, được mọi người biết đến với cái tên quen thuộc Nguyễn Khánh Thương, người sáng lập ra nhóm từ thiện Vòng tay yêu thương (FHG) năm 2006 với nhiều hoạt động tình nguyện ý nghĩa.
Nguyễn Thị Thương là đại diện thanh niên Việt Nam tham dự hội nghị quốc tế về văn hóa châu Á và châu Âu We are one tại Malaysia 2006; tham dự hội nghị quốc tế Thanh niên với các chính sách phát triển quốc gia tại Campuchia 2008; được hội đồng ung thư của Úc tại bang News South Wales tuyên dương là trưởng nhóm xuất sắc trong chiến dịch gây quỹ phòng chống và nghiên cứu ung thư Daffidil Day và Pink Ribbon Day năm 2010.
Cô giáo Nguyễn Thị Thương.
Với cương vị là một giảng viên trẻ, cô luôn tâm huyết, hết lòng vì công việc, tạo được hứng thú cho sinh viên với cách dạy mới mẻ và sáng tạo.
Không may mắc phải căn bệnh ung thư vú, đã di căn vào xương nhưng Khánh Thương vẫn luôn yêu đời, vững vàng đối mặt với bệnh tật, thể hiện khát khao sống cháy bỏng; bởi dự án doanh nghiệp xã hội hướng tới cộng đồng còn đang dang dở và cô muốn truyền thụ hết những kiến thức của mình cho sinh viên.
Trung úy Bùi Ngọc Tuấn
Anh hiện là chính trị viên đại đội 2, tiểu đoàn công binh 544, Bộ Tư lệnh Thủ đô. Anh người trực tiếp chỉ huy và cùng cán bộ, chiến sĩ tham gia tác nghiệp dò, gỡ bom, mìn, vật liệu nổ. Đây là công việc đặc biệt nguy hiểm trực tiếp đến sinh mang cán bộ, chiến sỹ.
Kết quả trong thời gian qua đã xử lý, vận chuyển, tiêu hủy an toàn 8 quả bom 500 Bảng, 670 quả bom bi tại thôn Nỗ Giao - Việt Hựng - Đông Anh.
Trung úy Bùi Ngọc Tuấn.
Bên cạnh đó, trong 2 năm Tết Nguyên đán Tân Mão và Nhâm Thìn vừa qua, anh đã chỉ huy lực lượng của đơn vị tham gia dò, gỡ bom, mìn, vật liệu nổ tạo 4 điểm bắn pháo hoa tầm cao trên địa bàn thủ đô góp phần quan trọng trong công tác bảo đảm an toàn cháy nổ, trước, trong và sau khi bắn.
Đặc biệt, anh đã lãnh đạo, chỉ huy và trực tiếp cùng đoàn viên Đại đội trong đội hình Tiểu đoàn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thi công đường hầm PT - 03 - đường hầm thi công trong điều kiện vô cùng khó khăn và nguy hiểm.
Với những đóng góp của mình, Trung úy Bùi Ngọc Tuấn đã được nhận nhiều giấy khen, bằng khen các cấp: bằng khen của Trung ương Đoàn tại lễ tuyên dương Tuổi trẻ Thủ đô học tập và làm theo lời Bác, là 1 trong 100 Đảng viên xuất sắc tiêu biểu thủ đô năm 2012…


Đi chợ " nửa tỉnh nửa quê"


Ngày Hà Nội chưa mở rộng, chợ quê chỉ cách trung tâm mươi cây số. Bây giờ, nếu lấy Tháp Rùa làm tâm quay com-pa bán kính 30 km cũng chưa chắc đã gặp “mảnh” chợ quê nào cho đúng nghĩa...

Chợ luôn là một phần không thể tách rời đời sống xã hội, phản ánh khá trung thực đời sống kinh tế ở nơi đã sinh ra nó và đương nhiên, là yếu tố cấu thành đời sống văn hóa vùng miền. Người sang đi chợ lớn, người nghèo đi chợ cóc, chợ quê.
Ngày Hà Nội chưa mở rộng, chợ quê chỉ cách trung tâm mươi cây số là thấy. Bây giờ, nếu lấy tháp rùa làm tâm quay com- pa bán kính 30 km cũng chưa chắc đã gặp “mảnh” chợ quê nào cho đúng nghĩa. Lối sống thành phố đã quen dần với siêu thị, cửa hàng bách hóa.
Người nông thôn tiêu dùng nhỏ lẻ thì quen chợ quê, bởi ít tiền mà tính toán chi li kiểu “năm xu một hào” - đấy là một cách nói vui. Còn kiểu chợ nửa tỉnh nửa quê thì mọc ra ở vùng giáp ranh, giữa nông thôn với thành thị. Pha lẫn sự dồi dào hàng hóa của các chợ đầu mối với mớ tôm mớ tép mà người nông dân đi làm đồng kiếm được, chợ cho thấy hai nửa sang - nghèo của vùng “biên” vẫn chưa thực sự thoát nghèo.
Chợ Khê là một ví dụ. Chợ nằm trên triền đê tả sông Hồng, xã Văn Khê, huyện Mê Linh - Hà Nội, trong vùng giáp ranh với Vĩnh Phúc, cách trung tâm thành phố khoảng 30 km. Mặc dù không phải là một kiểu chợ quê đúng nghĩa, nhưng những người bán hàng ở đây vẫn gợi nhớ về một “văn hóa chợ” mà chắc không lâu nữa có thể sẽ không còn.
Xã Văn Khê là vùng khá nóng về thị trường bất động sản khi được các nhà đầu tư nhòm ngó.


Chợ nằm trên đê tả sông Hồng, phía sau là khá nhiều những ngôi nhà lớn, mới xây dựng.


Một bà cụ đi chợ với kiểu chít khăn mỏ quạ.


Khi chiều muộn là lúc chợ đông, trông nó giống một chợ đầu mối.


Có rất nhiều cụ già với dăm mớ rau và đôi quang gánh đến chợ bán hàng. Tổng thu cả buổi ước chừng khoảng dưới 100 nghìn đồng.



Một chú bê lang thang bên đàn vịt sắp bị "lên thớt".



Một bà bán rau hiền lành. Bà cụ nhỏ thó, nên những người bán hàng ở chợ thường gọi là cụ Mẩu.

Chợ chiều.



Không có đèn chiếu sáng, để nhìn rõ lúc mua bán người ta thường dựa vào ánh đèn xe.




Một bà cụ đã bán hết hàng.


Có rất nhiều hàng vịt nướng, giá 140 nghìn đồng/con.


Chợ khi vắng vẻ gợi nhớ một vùng quê yên bình nhưng có thể sẽ không còn trong nay mai.


Vẫn còn rất nhiều xe đạp được dùng làm phương tiện đi chợ và chở hàng. Có lẽ loại phương tiện này sẽ không bao giờ mất?


Hội nghị công bố và bàn giao quy hoạch công viên tưởng niệm thiên đường Thanh Tước



Sáng ngày 7/3, tại Hội trường Trung tâm huyện Mê Linh, Sở quy hoạch kiến trúc thành phố Hà Nội tổ chức hội nghị công bố và bàn giao quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 công viên tưởng niệm thiên đường Thanh Tước. Dự hội nghị có đồng chí Hà Huy Quang – Ủy viên Ban thường vụ Huyện ủy – Phó Chủ tịch UBND huyện; đồng chí Đường Văn Quang – Phó chủ tịch HĐND huyện, lãnh đạo các phòng, ban chức năng huyện; lãnh đạo Đảng ủy – HĐND – UBND , MTTQ các xã, thị trấn trên địa bàn cùng với sự tham dự của đại diện đơn vị thiết kế và chủ đầu tư công trình.

Dự hội nghị có đồng chí Hà Huy Quang – Ủy viên Ban thường vụ Huyện ủy – Phó Chủ tịch UBND huyện; đồng chí Đường Văn Quang – Phó chủ tịch HĐND huyện, lãnh đạo các phòng, ban chức năng huyện; lãnh đạo Đảng ủy – HĐND – UBND , MTTQ các xã, thị trấn trên địa bàn cùng với sự tham dự của đại diện đơn vị thiết kế và chủ đầu tư công trình.


Đ/c Hà Huy Quang - Ủy viên Ban thường vụ Huyện ủy – Phó Chủ tịch UBND huyện phát biểu tại hội nghị
Dự án công viên tưởng niệm thiên đường Thanh Tước có tổng diện tích nghiên cứu lập quy hoạch khoảng hơn 64 nghìn m2 thuộc địa bàn xã Thanh Lâm, huyện Mê Linh, thanh phố Hà Nội. Đây là một loại hình nghĩa trang mới, mang tính chất công viên cây xanh, văn hóa, văn minh, hiện đại, đảm bảo vệ sinh môi trường, tiết kiệm đất đai, đáp ứng nhu cầu mai táng của nhân dân huyện Mê Linh và vùng phụ cận. Tổng thể khu nghĩa trang là một quần thể kiến trúc tâm linh thông qua ngôn ngữ tổ chức không gian với chủ thể là khu vực nhà hỏa táng và các khu vực lưu tro nằm trong không gian xanh yên bình, tĩnh lặng. Tỷ lệ cây xanh mặt nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thể khu nghĩa trang.
Dự án sẽ được triển khai vào tháng 3 năm nay và dự kiến hoàn thành và đưa vào sử dụng trong năm 2014.
Đại diện Sở Quy hoạch Kiến trúc thành phố Hà Nội, Công ty TNHH thương mại Hoa sen
vàng và lãnh đạo phòng Quản lý đô thị huyện Mê Linh ký bàn giao đồ án quy hoạch
Để dự án được triển khai đúng tiến độ cũng như được sự đồng thuận của nhân dân, đồng chí Hà Huy Quang - Ủy viên Ban thường vụ Huyện ủy – Phó Chủ tịch UBND huyện Mê Linh yêu cầu các đơn vị liên quan thực hiện nghiêm túc các nội dung, cụ thể:
Phòng Quản lý đô thị huyện nhận bàn giao hồ sơ Đồ án quy hoạch từ Sở Quy hoạch – Kiến trúc và chịu trách nhiệm quản lý, giám sát xây dựng theo quy hoạch được duyệt.
UBND xã Thanh Lâm cần làm tốt công tác tuyên truyền về dự án cho nhân dân trong toàn xã để nhân dân biết, đồng thuận trong việc triển khai dự án đầu tư theo quy định.; chịu trách nhiệm quản lý, giám sát xây dựng theo quy hoạch được duyệt theo phân cấp.
Bên cạnh đó, trên cơ sở đồ án được công bố, UBND các xã, thị trấn cần tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân để nhân dân biết và đồng thuận.  Các đơn vị liên quan phối hợp chặt chẽ với chủ đầu tư để triển khai đầu tư xây dựng dự án hiệu quả, chất lượng, đáp ứng tiến độ dự án.
Về phía Chủ đầu tư là công ty TNHH thương mại Hoa Sen Vàng cần xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai xây dựng dự án ngay theo quy hoạch, tiến độ đã phê duyệt và phối hợp với chính quyền và nhân dân địa phương để chủ động giải quyết các khó khăn vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện dự án./.



Mê Linh : Sẽ sớm xử lý những dự án " ì ạch"



Ông Hà Huy Quang - Phó Chủ tịch UBND- huyện Mê Linh (Hà Nội) cho biết, trong thời gian tới Huyện sẽ yêu cầu các chủ đầu tư phải chốt tiến độ giải phóng mặt bằng, tiến độ triển khai dự án. Dự án nào quá chậm sẽ có kiến nghị với Thành phố để xử lý.

Trên địa bàn huyện Mê Linh hiện có khoảng 50 dự án bất động lớn với quy mô từ 10 ha cho đến cả 100 ha. Tuy nhiên, sau nhiều năm giao đất, hầu hết các dự án tại đây đều đang bị bỏ hoang hóa. Nhìn hàng trăm ha đất trồng hoa, trồng lúa sau khi được chủ đầu tư thu hồi đã trở thành bãi cỏ dại nhiều người không khỏi xót xa.
Ảnh: Minh họa
Trao đổi với PV về nguyên nhân dẫn đến việc chậm triển khai các dự án, ông Hà Huy Quang - Phó Chủ tịch UBND huyện Mê Linh cho biết, hiện trên địa bàn huyện gần 50 dự án bất động sản. Hầu hết các dự án này đều được phê duyệt theo quyết định của tỉnh Vĩnh Phúc (cũ), Hà Nội chưa quyết định một dự án nào.

Trước trào lưu, xu hướng muốn kêu gọi đầu tư và tạo điều kiện các nhà đầu tư vào địa bàn huyện Mê Linh, Chính phủ đã quyết định phê duyệt chiến lược riêng phát triển huyện Mê Linh trở thành đô thị trung tâm. Do vậy, hầu hết đất đai tại khu vực này hiện đã có chủ.

Trong đợt rà soát từ cuối năm ngoái, UBND TP Hà Nội đã cho phép 8 dự án đô thị/50 dự án được triển khai ngay. Đây đều là những dự án nhỏ, đủ thủ tục. Còn lại, tất cả các dự án lớn đều phải chờ để điều chỉnh quy hoạch. Đến thời điểm này, quy hoạch chung đã được thông qua, hiện nay thành phố chỉ đạo các Sở ban ngành làm quy hoạch phân khu N1, N2 cộng với 1 quy hoạch vành đai xanh (GN).

Trong đó, tất cả các đô thị này nằm trong phân khu N1, hiện nay các dự án đang phải chờ song hành phê duyệt phân khu N1. Nhiều khả năng trong tháng 8, Thành phố sẽ đề nghị lập quy hoạch 1/500 cho các dự án. Căn cứ vào đó, mới biết được dự án nào sẽ được triển khai tiếp.

Theo ông Quang, trước thực trạng dự án bị bỏ hoang, gây bức xúc dư luận, Huyện rất muốn xử lý song còn nhiều vướng mắc. Trước mắt, Huyện chỉ có thể yêu cầu doanh nghiệp báo cáo, đôn đốc, rà soát tiến độ dự án. Huyện sẽ mời các doanh nghiệp đến, đề nghị họ chốt tiến độ những việc giải phóng mặt bằng, tiến độ triển khai dự án. Sau đó, tổng hợp báo cáo thành phố, nếu dự án triển khai quá chậm so với thời hạn thành phố cấp phép thì đề xuất Thành phố xử lý.


Choáng với cảnh hoang vu " siêu đô thị" Mê Linh


Sau khi huy động vốn, nhiều chủ đầu tư dự án bất động sản tại Mê Linh, Hà Nội đã "quên" nhiệm vụ triển khai

Theoquy hoạch chung thủ đô Hà Nội (2020-2050), Mê Linh sẽ trở thành đô thị trung tâm Hà Nội, chính vì vậy nhiều năm trước hàng loạt các“đại gia” có máu mặt trong làng bất động sản như HUD, Cienco5, Vinaconex… đã nhanh chân xí phần để lấy đất xây đô thị.
Tuynhiên,sau cả chục năm được giao dự án, nhiều dự án đã giải phóngxong mặt bằng từ vài năm nay nhưng chủ đầu tư vẫn ì ạch không chịu triển khai khiến cho hàng trăm ha đất tại đây đã trở thành những bãi đấthoang...
choang-voi-canh-hoang-vu-sieu-do-thi-me-linh
Nằmdọc tuyến đường quốc lộ 23B chạy qua địa bàn huyện Mê Linh hiện có cả chục dự án lớn như Minh Giang, Minh Đức, Làng hoa Tiền Phong ... nhưng ít dự án đã hoàn thành xong công tác đền bù giải phóng mặt bằng.
choang-voi-canh-hoang-vu-sieu-do-thi-me-linh
choang-voi-canh-hoang-vu-sieu-do-thi-me-linh
choang-voi-canh-hoang-vu-sieu-do-thi-me-linh
Dự án Minh Giang giai đoạn 1
choang-voi-canh-hoang-vu-sieu-do-thi-me-linh
choang-voi-canh-hoang-vu-sieu-do-thi-me-linh
choang-voi-canh-hoang-vu-sieu-do-thi-me-linh
Một dự án cũng trong cảnh điêu tàn không khác gì dự án Minh Giang
choang-voi-canh-hoang-vu-sieu-do-thi-me-linh
Cỏ lau, cỏ dại đang mọc ngút đầu người
choang-voi-canh-hoang-vu-sieu-do-thi-me-linh
Dựán AIC 
choang-voi-canh-hoang-vu-sieu-do-thi-me-linh
choang-voi-canh-hoang-vu-sieu-do-thi-me-linh
choang-voi-canh-hoang-vu-sieu-do-thi-me-linh
choang-voi-canh-hoang-vu-sieu-do-thi-me-linh
Một trong những dự án hiếm hoi nhất được triển khai xây dựng hạ tầng
choang-voi-canh-hoang-vu-sieu-do-thi-me-linh
choang-voi-canh-hoang-vu-sieu-do-thi-me-linh
Dựán KĐT Minh Đức
choang-voi-canh-hoang-vu-sieu-do-thi-me-linh
Trên đất dự án khu nhà ở Minh Đức, người dân đang tranh thủ trồng chuối


Gần 100% dự án ở huyện Mê Linh phải điều chỉnh quy hoạch


Theo UBND huyện Mê Linh, Hà Nội, sau khi có quy hoạch phân khu, gần như 100% các dự án đô thị trên địa bàn sẽ phải điều chỉnh lại quy hoạch 1/500 theo quy hoạch phân khu mới.  

Ông Hà Huy Quang, Phó Chủ tịch UBND huyện Mê Linh cho biết, trên địa bàn huyện hiện đang có 40 dự án đô thị với tổng diện tích 2.000 ha, trong đó có trên 30 dự án đang triển khai dang dở, phần lớn trong giai đoạn đang giải phóng mặt bằng.
Nếu chiếu theo quy hoạch phân khu đô thị N1, N2, N3 thì nhiều dự án sẽ bị điều chỉnh tăng diện tích mặt nước, cây xanh, diện tích dành cho nhà cao tầng, đặc biệt là cho các dự án nhà ở xã hội. Vì thế sẽ có nhiều xáo trộn so với quy hoạch trước đây.
 
Trong khi đó, một loạt dự án tại khu vực này đã huy động vốn của người mua nhà, thậm chí là khi chưa giải phóng xong mặt bằng theo quy hoạch cũ.
Theo tìm hiểu của phóng viên, tại nhiều dự án, nhiều khu vực trước đây quy hoạch nhà liền kề biệt thự sẽ bị điều chỉnh thành nhà chung cư, vườn hoa. Nhiều khu phân lô, biệt thự sẽ bị điều chỉnh diện tích so với quy hoạch cũ.
Nhiều nhận định là trong thời gian tới, những dự án bị điều chỉnh quy hoạch sẽ phải đối mặt với việc kiện tụng, giải trình với người mua nhà về sự thay đổi trên, nhất là khi tại các dự án này trước đây, số tiền thu chênh lệch bên ngoài theo mét vuông là rất lớn.       


Hà nội: Thêm dự án nhà ở xã hội giá 8,5 triệu đồng/m2

Hà Nội vừa có thêm một dự án nhà ở xã hội được chào bán với giá 8,5 triệu/m2 tại khu đô thị Thanh Lâm, Đại Thịnh (Mê Linh) do Tổng công ty Đầu tư phát triển nhà và đô thị HUD làm chủ đầu tư.

Dự án nhà ở xã hội Thanh Lâm, Đại Thịnh có diện tích hơn 12 nghìn m2, diện tích xây dựng 3.600 m2 bao gồm 2 khối nhà cao 9 tầng. Dự án có 432 căn hộ có diện tích trung bình từ 32,8m – 69m2. Như vậy, giá bán căn hộ sẽ vào khoảng 300-600 triệu đồng/m2.
Hiện, chủ đầu tư đã xây dựng xong hạ tầng, dự kiến khởi công xây dựng dự án vào cuối năm 2013.
Theo đại diện ban quản lý dự án này, người mua nhà chỉ cần có khoảng 20% (tương ứng 60 – 120 triệu đồng) là có thể mua nhà ở xã hội tại đây. Số tiền còn lại sẽ được vay vốn ưu đãi từ gói 30 nghìn tỷ đồng của Ngân hàng nhà nước, với lãi suất 6%/năm, thời hạn vay là 10 năm. Hiện, chủ đầu tư đã khảo sát và lấy ý kiến của người mua, đã có hơn 100 đơn đăng ký mua nhà. Trong đó, các đối tượng đăng ký chủ yếu là cán bộ công chức đang sinh sống và làm việc tại huyện Mê Linh.


Lễ khai mạc chung kết Giải chạy Báo Hà nội mới lần thứ 40 - Vì hòa bình huyện Mê Linh năm 2013



Sáng ngày 8/9, tại quảng trường huyện, huyện Mê Linh tổ chức Lễ khai mạc Chung kết Giải chạy Báo Hànộimới lần thứ 40 – Vì hoà bình năm 2013.

Dự Lễ khai mạc, về phía Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch thành phố có đồng chí Nguyễn Khắc Lợi – Phó Giám đốc Sở; về phía huyện Mê Linh có các đồng chí: Lưu Tiến Long – Thành uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ; Đỗ Minh Tuấn – Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ, Chủ tịch HĐND huyện; các đồng chí Uỷ viên BTV Huyện uỷ; các đồng chí thường trực HĐND – UBND huyện; các đồng chí trong Ban chỉ đạo, Ban tổ chức giải; lãnh đạo các phòng, ban, ngành, đoàn thể, MTTQ, các đơn vị hiệp quản trên địa bàn huyện, lãnh đạo các xã, thị trấn cùng các vận động viên xuất sắc được tuyển chọn từ các đơn vị cơ sở.

Đ/c Lưu Tiến Long – Thành uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ, Đ/c Đỗ Minh Tuấn – Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ,
Chủ tịch HĐND huyện  tặng cờ và hoa lưu niệm
 các đoàn tham gia
Năm 2013 là năm thứ 5 liên tiếp huyện Mê Linh tổ chức Giải chạy Báo Hànộimới từ cơ sở đến cấp huyện, thu hút nhiều lực lượng tham gia. Đã có 28 đơn vị, bao gồm 18 xã, thị trấn, 8 trường học và 2 đơn vị lực lượng vũ trang trên địa bàn triển khai giải, với hơn 6.000 vận động viên tham gia chạy kiểm tra, vượt hơn 3.000 vận động viên so với chỉ tiêu thành phố giao. Tại vòng chung kết cấp huyện, 360 vận động viên tiêu biểu, xuất sắc được lựa chọn từ các đơn vị cơ sở đã dự tranh ở các nội dung: nữ học sinh THCS, nam học sinh THCS, nữ học sinh THPT, nam học sinh THPT, nữ người lao động, lực lượng vũ trang và nam người lao động, lực lượng vũ trang.
Kết quả giải chung kết là cơ sở để Ban tổ chức huyện thành lập đội tuyển tham gia thi Chung kết giải chạy Báo Hànộimới mở rộng lần thứ 40 cấp thành phố diễn ra vào tháng 10 tới.
Phát biểu tại Lễ khai mạc giải, đồng chí Hoàng Anh Tuấn – Huyện uỷ viên, Phó Chủ tịch UBND huyện, Trưởng Ban chỉ đạo giải mong muốn các vận động viên thi đấu với quyết tâm cao nhất để đạt thành tích tốt nhất; yêu cầu các trọng tài và Ban tổ chức điều hành giải chạy đảm bảo công bằng, khách quan, vô tư để giải chạy Báo Hànộimới mở rộng lần thứ 40 – Vì hoà bình huyện Mê Linh năm 2013 được tổ chức an toàn, thành công.
 Đ/c Hoàng Anh Tuấn - Huyện uỷ viên, Phó Chủ tịch UBND huyện, Trưởng Ban chỉ đạo
Giải chạy Báo Hànộimới lần thứ 40 – Vì hoà bình huyện năm 2013 phát biểu khai mạc
Sau Lễ khai mạc, các vị đại biểu cùng lãnh đạo Huyện uỷ - HĐND – UBND – UBMTTQ huyện và các phòng, ban đã tham gia chạy hưởng ứng.
  Các đồng chí lãnh đạo Huyện uỷ - HĐND – UBND – UBMTTQ và lãnh đạo
các phòng, ban, ngành, đoàn thể huyện tham gia chạy hưởng ứng
Kết thúc giải, khối THCS giải Nhất nữ thuộc về vận động viên Nguyễn Thị Loan – THCS Tiến Thắng, giải Nhất nam thuộc về vận động viên Đỗ Văn Vĩnh – THCS Tiến Thắng; khối THPT, giải Nhất nữ thuộc về vận động viên Nguyễn Thị Thành - trường THPT Tự Lập, giải Nhất nam thuộc về vận động viên Trần Trọng Nghĩa – THPT Yên Lãng; Khối Người lao động và Lực lượng vũ trang, giải Nhất nữ thuộc về vận động viên Vũ Thị Hằng – xã Tiền Phong và giải Nhất nam thuộc về vận động viên Nguyễn Trọng Anh – xã Kim Hoa.
 Đ/c Hoàng Anh Tuấn - Huyện uỷ viên, Phó Chủ tịch UBND huyện,
Trưởng Ban chỉ đạo Giải trao giải Nhất cho các nam vận động viên khối THPT
Thông qua Giải chạy Báo Hànộimới góp phần đẩy mạnh phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” trên địa bàn huyện. 





"Vương nữ Mê Linh" đến với kháng giả thủ đô




Bấy lâu nay, sân khấu phía bắc thường hiu hắt, không ít vở diễn sau khi dàn dựng xong, diễn vài buổi là “đắp chiếu để đấy” vì …không có khách. Nhưng với “Vương nữ Mê linh” của Nhà hát chèo Hà Nội, bắt đầu công diễn từ 21/9/2013, có thể gọi là một hiện tượng lạ.


Nhà hát Chèo Hà Nội bên cạnh những tác phẩm chèo cổ mang tính bảo tồn di sản văn hóa truyền thống đã có nhiều chương trình chèo thiếu nhi để giới thiệu , truyền bá và giáo dục thế hệ trẻ trong chương trình “sân khấu học đường”.
Thế nhưng, để chèo đi vào công chúng giữa lòng thành phố lớn, phải có một “ngôn ngữ chèo” gần với tiếp nhận của khán giả hôm nay.
Khán giả xưa khác khán giả nay, khi “một thành phần của sân khấu” thay đổi thì vở diễn không thể như cũ.
Bấy lâu nay, sân khấu phía bắc thường hiu hắt, không ít vở diễn sau khi dàn dựng xong, diễn vài buổi là “đắp chiếu để đấy” vì …không có khách. Nhưng với “Vương nữ Mê linh” của Nhà hát chèo Hà Nội, bắt đầu công diễn từ 21/9/2013, có thể gọi là một hiện tượng lạ.
Cho đến hôm nay, Nhà hát đã diễn được 9 buổi và buổi diễn nào cũng gần như kín khán phòng của rạp Đại Nam (89 phố Huế).
Lạ tới mức, CLB nhà báo sân khấu thuộc Hội NSSK VN phải mở một cuộc tọa đàm “ Chèo và khán giả hôm nay qua vở diễn “Vương nữ Mê Linh” gồm các nhà lý luận phê bình, quản lý sân khấu và những nhà báo yêu thích chèo.
Việc một vở diễn được khán giả quan tâm là một ghi nhận đầu tiên khi mà đầu tư cho công trình có hiệu quả, tác phẩm được đón nhận và đi vào đời sống, không như một khu chợ xây xong bỏ hoang vì không ai vào bán và mua vì xa lạ với cộng đồng.
Có thể nói "Vương nữ Mê Linh" là sự kết hợp nhuần nhụy giữa truyền thống và hiện đại. Những trình thức trong chèo truyền thống vẫn là nét chủ đạo của vở diễn. Vẫn hồn cốt của chèo, song tính hiện đại và những tìm tòi mới đã được bổ sung một cách hợp lý.
Là vở diễn lịch sử được dàn dựng nhân kỷ niệm 2000 năm ngày sinh của Hai Bà Trưng, vở chèo "Vương nữ Mê Linh" của tác giả Nhật Linh, được NSƯT Xuân Hanh chuyển thể chèo và do NSUT – đạo diễn Thúy Mùi dàn dựng.
Khí phách anh hùng của Hai Bà Trưng trong việc đánh quân Nam Hán, bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất bờ cõi đã đi vào sân khấu qua khá nhiều vở diễn gồm đủ loại hình Tuồng, Chèo, Cải lương và việc Nhà hát Chèo Hà Nội tiếp tục dựng vở về Hai bà Trưng, quả là một sự thách thức. Chuyện “nợ nước thù nhà” của Hai Bà rồi những nhân vật như Thi Sách, Tô Định, ai cũng biết qua lịch sử được học từ nhỏ, nhưng vẫn hút được khán giả, tạo được sự hấp dẫn, trước hết là bởi những tìm tòi nghệ thuật của đạo diễn Thúy Mùi.
Khác với chèo sân đình, Thúy Mùi tìm hình thức sử thi trong dàn dựng với một sân khấu hoành tráng, từ ánh sáng, trang trí đến trang phục. Đạo diễn đưa thêm cả cải lương, tuồng, kịch thơ, thậm chí cả ba lê vào chèo với liều lượng hợp lý, đúng chỗ tạo ra sự đa dạng, phong phú trong một vở diễn rất chèo!
Những lớp như “phá trận đồ”, “kết duyên” giữa Trưng Trắc và Thi Sách…là những lớp sân khấu đẹp. Lớp Trưng Trắc “giả điên” vận dụng từ “Xúy Vân giả dại” của chèo cổ, nhưng bằng múa hiện đại là một sáng tạo bất ngờ của đạo diễn. Tính hiện đại với yếu tố bất ngờ trong kịch nói cũng được vận dụng trong lớp chèo “chuốc rượu mê” hay kế hoạch vờ tan rã để vào rừng sâu nuôi chí lớn che mắt giặc đã làm giàu có thêm cho chèo trước khán giả hiện nay.
Tiết tấu trong "Vương nữ Mê Linh" nhanh, nhưng đạo diễn chọn đúng những điểm nhấn trong hành động của nhân vật, tạo được sự sâu lắng tâm trạng, vốn là đặc trưng của chèo. Lớp chèo “nghe tin chồng hy sinh” của Trưng Trắc là lớp diễn đầy xúc động với tất cả bão tố trong lòng nhân vật. Đây là điểm nhấn quan trọng nhất dẫn đến chuyện giả điên tạo ra sự thật - giả rất logic và trí tuệ, qua đó, phẩm chất nhân vật được bộc lộ một cách ngọt ngào không khiên cưỡng. Đáng nói thêm là cảnh vợ Sầm Đan gặp lại người Mê Linh giữa hang ổ hùm sói đã tạo đất tốt cho diễn viên thể hiện tâm trạng buồn vui sau trước và từ đó toát lên chân lý: Những con dân nước Việt dù trong hoàn cảnh nào cũng sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn cho một giang sơn toàn vẹn.
Điểm đột phá đáng ghi nhận qua "Vương nữ Mê Linh" còn là chuyện…ngoài vở diễn.
Một cảnh trong "Vương Nữ Mê Linh"
Là tác phẩm sẽ tham gia liên hoan sân khấu chèo chuyên nghiệp toàn quốc, nhưng Nhà hát Chèo Hà nội không nặng bệnh thành tích giành huy chương khi dám giao những vai chính cho lớp diễn viên trẻ. Hai vai nữ chính đầy “gai góc” là Trưng Trắc, Trưng Nhị được giao cho Thục Khánh và Thảo Quyên vốn quen vào vai tiểu thư liễu yếu đào tơ trước đây, quả là thách thức rất lớn đối với những vai diễn trẻ đòi hỏi nhiều công sức tìm tòi luyện tập.
Hai vai nam chính là Thi Sách, Thi Sơn cũng do hai nam diễn viên trẻ đảm nhiệm là Quốc Phòng và Quang Dương đã hút khán giả bằng giọng hát chèo tinh tế và hào sảng. Đây là thái độ phát triển chèo rất đáng trân trọng cũng như đặt niềm tin và tạo điều kiện thể hiện cho lớp trẻ của nhà hát.
Chọn diễn viên gạo cội có kinh nghiệm cho vai chính thì an toàn, nhưng như thế đến bao giờ diễn viên trẻ được cọ xát và bộc lộ, phát huy những khả năng tiềm ẩn ?” Tất nhiên, để giữ nhịp cho toàn bộ tác phẩm, đạo diễn Thúy Mùi đã chọn lớp đàn anh là NSƯT Quốc Anh vào vai Tô Định và NSƯT Đức Thuận vào vai Sầm Đan. Hình như hai lớp diễn viên trẻ-già này đã tạo ra cái duyên của vở diễn với những tìm tòi mới đầy sáng tạo.
"Vương nữ Mê Linh" chắc chắn còn được tiếp tục nâng cao, bổ sung những sáng tạo mới bởi mỗi đêm diễn phải là một sản phẩm, sản phẩm sau phải hơn sản phẩm trước, như NSUT Thúy Mùi tâm sự. Đây là vở diễn công phu, chỉn chu được đông đảo khán giả tìm đến. Tuy “hữu xạ tự nhiên hương” là đáng trọng, nhưng liệu có cần phải xem nhẹ sự quảng bá đến rộng rãi công chúng không, khi mà trong bộn bề cuộc sống hiện nay, không phải ai cũng biết có một vở diễn như thế.
Ít ra, cửa rạp Đại Nam cũng phải rực rỡ hơn với đèn sáng chiếu vào rạp, vào pano như một hình thức thông báo để công chúng đến với sân khấu như đến với ngày hội. Dù sao, đây cũng là tín hiệu rất đáng mừng khi sân khấu đã bắt đầu đến được với khán giả.



Tổng quan về di tích lịch sử văn hóa huyện Mê Linh


Lịch sử hình thành và phát triển huyện Mê Linh gắn liền với thời đại các vua Hùng dựng nước, là địa bàn cư trú của các Lạc tướng, Lạc hầu dòng dõi vua Hùng.

Vùng đất đồng bằng phì nhiêu, màu mỡ này vốn là nơi giao lưu kinh tế và văn hoá của các vùng như: miền núi, trung du và đặc biệt là sự giao thoa văn hoá với các tỉnh lân cận nhất là với kinh đô Thăng Long, nên đã hội tụ ở đây một nền văn hoá phong phú, đa dạng góp phần không nhỏ vào sự hình thành phát triển của nền văn minh sông Hồng rực rỡ. Trong đó, các di tích lịch sử - văn hoá như một minh chứng cho đôi bàn tay khéo léo, óc sáng tạo tinh tế của người Việt, đồng thời còn đánh dấu sự ra đời và phát triển của văn minh cộng đồng, làng xã Việt Nam.
            Qua nghiên cứu tìm hiểu, các nhà khoa học đã cho thấy các di tích lịch sử, đình, đền, chùa, miếu là biểu tượng cho cộng đồng làng xã Việt Nam, ẩn chứa trong đó là cốt cách, là tâm hồn của người dân đất Việt. Từ lâu trong tâm thức của người dân Mê Linh, các di tích lịch sử - văn hoá chính là một phần linh hồn, một nét văn hoá đặc sắc của quê hương. Do vậy, nơi đây đã lưu giữ được 179 di tích, trong đó 27 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, 42 di tích được xếp hạng cấp tỉnh, thành phố.
            Cũng giống như các di tích lịch sử - văn hoá trong cả nước, di tích lịch sử - văn hoá huyện Mê Linh gồm có: đình, đền, chùa, miếu; bên cạnh còn có di chỉ khảo cổ học.
            Di chỉ khảo cổ học được tìm thấy ở Mê Linh đó là di tích Thành Dền. Di chỉ Thành Dền ở xã Tự Lập được phát hiện năm 1970 với diện tích khoảng 2,5ha. Hiện vật thu lượm được khá phong phú, bao gồm: đồ đá, đồ đồng, và đồ gốm,… đặc biệt đây còn tìm được nhiều khuôn đúc và hàng trăm cục sỉ đồng. Có thể khẳng định Thành Dền không những là một di chỉ cư trú mà còn là một trung tâm luyện đúc đồng quan trọng đương thời. Cùng với di chỉ Đồng Đậu huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc, di chỉ Thành Dền ở Mê Linh đã tạo nên một bộ mặt văn hoá, một giai đoạn đồ đồng khá phát triển ở cả lưu vực sông Hồng thời kỳ tiền Hùng Vương. Cho đến nay trong giai đoạn văn hoá Đồng Đậu, trên lưu vực sông Hồng, chưa có điểm nào phong phú, toàn diện hơn di chỉ Đồng Đậu và Thành Dền.
            Mê Linh là huyện đồng bằng, nên không có sự phân chia vùng miền. Điều kiện địa lý này đã tác động đến quy mô, cấu trúc, cũng như việc tôn thờ trong các di tích lịch sử - văn hoá địa phương. Các di tích lịch sử - văn hoá ở đây thường được xây dựng to lớn, bề thế, chạm trổ tinh xảo, với nhiều cách điệu dân gian như: Rồng phun nước, cá vượt vũ môn và các đề tài: “Tứ Linh” (long – ly – quy - phượng) là những con vật biểu tượng cho sức mạnh, sự thông minh, khéo léo, trường tồn cùng thời gian, hay “Tứ Quý” (tùng - cúc - trúc - mai) biểu tượng cho sự mềm dẻo, linh hoạt, bền vững và cái đẹp quý phái. Bên cạnh yếu tố địa lý, các yếu tố thuân lợi về kinh tế, văn hoá, cũng góp phần quan trọng làm nên sự quy mô, bề thế của hệ thống di tích lịch sử, văn hoá ở Mê Linh.
            Mê Linh tự hào là vùng đất đế đô thời Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa. Vì vậy, phần lớn các di tích lịch sử, văn hoá ở đây đều ghi dấu những chiến công hiển hách của Hai Bà Trưng như: cố đô Mê Linh ở Hạ Lôi, xã Mê Linh, nay có đền thờ Hai Bà Trưng - cùng thân quyến và các tướng lĩnh của Hai Bà. Nhiều di tích thờ tướng lĩnh của Hai Bà như: đình Bạch Trữ thờ Cống Sơn, đền Đông Cao xã Tráng Việt thờ bà Hồ Đề, đền Văn Lôi xã Tam Đồng thờ Lũ Luỹ, đình Phú Mỹ xã Tự Lập thờ vợ chồng tướng Hùng Bảo, đình Bồng Mạc, Yên Mạc xã Liên Mạc thờ hai nữ tướng Ả Nang, Ả Nương,…
            Năm 544, nhà Lương cho quân sang xâm lược, với âm mưu biến nước ta thành quận, huyện của chúng. Theo tiếng gọi của non sông, Lý Bôn đã đứng lên chiêu tập hiền tài đánh đuổi quân xâm lược, ông đã sử dụng chiến thuật thuỷ chiến và sông Cà Lồ (ranh giới giữa 2 huyện Mê Linh – thành phố Hà Nội và Bình Xuyên - tỉnh Vĩnh Phúc) đã được chọn làm trung tâm cuộc khởi nghĩa. Do đó, ngày nay hai bên sông Cà Lồ thuộc hai huyện Mê Linh và Bình Xuyên có rất nhiều di tích thờ Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương và các tướng lĩnh của hai ông như: đình Diến Táo, đền Kim Giao xã Tiến Thắng thờ Lý Nam Đế, xã Quang Minh có 4 di tích thờ Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng và các tướng của Triệu Việt Vương. Các di tích lịch sử - văn hoá này đã và đang làm thành một vùng di tích về thời Triệu Việt Vương ở phía nam Mê Linh.
            Là huyện có truyền thống văn hoá lâu đời, trong suốt thời kỳ phong kiến Việt Nam (1075-1919), nghĩa là từ triều Lý mở khoa thi đầu tiên đến khoa thi cuối cùng dưới triều Nguyễn, huyện Mê Linh liên tục có người đăng khoa. Toàn huyện có 15 tiến sỹ Nho học, trong đó dưới triều Lê có 12 danh nhân. Các danh Nho thể hiện là những người có nhiều đóng góp cho quê hương mình. Đỗ Nhuận người thôn Bạch Đa, xã Kim Hoa, đỗ tiến sĩ năm 1446 lúc 20 tuổi. Ông làm quan đến chức Thượng Thư, Đông Các đại học sĩ, từng được vào cung dạy học cho Vương tử và thường được đạo đàm với vua Lê. Nhờ giỏi thơ mà Đỗ Nhuận được vua Lê Thánh Tông phong làm Tao đàn Phó nguyên suý. Ông đã cùng các ông Thân Nhân Trung, Quách Đình Bảo, Đàm Văn Lễ, Đào Cử biên soạn sách “Thiên Nam dư hạ tập”, ghi chép chính sự về triều Lê, gồm 100 quyển. Ông còn cùng với Thân Nhân Trung và Lương Thế Vinh khảo cứu âm nhạc nước nhà và Trung Quốc, đặt ra hai bộ Đồng Văn  Nhã Nhạc. Hiện nay, trên địa bàn huyện cũng có nhiều di tích thờ các vị. Do đó, các di tích lịch sử văn hoá nơi đây không chỉ có giá trị về mặt tâm linh, nghệ thuật, kiến trúc và còn bao hàm tinh thần hiếu học, có ý nghĩa giáo dục sâu sắc cho các thế hệ con cháu noi theo.
            Phần lớn các di tích lịch sử trên địa bàn huyện Mê Linh là thờ nhân thần, vì nơi đây là vùng đất gắn liền với các sự kiện lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc như: Hai Bà Trưng, thời kỳ nhà Tiền Lý. Tuy là huyện nằm ven sông, nhưng Mê Linh ít có di tích thờ thủy thần, ngay cả một xã nằm ven sông vẫn thờ nhân thần, điều này chứng tỏ nhân dân nơi đây ít chịu ảnh hưởng bởi yếu tố địa hình mà chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi giá trị lịch sử.
            Mê Linh cũng là huyện có nhiều di tích lịch sử cách mạng. Mê Linh là căn cứ địa cho các phong trào cách mạng yêu nước chống giặc ngoại xâm, vừa là an toàn khu, nơi sơ tán các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể Trung ương và địa phương; là nơi diễn ra các chiến dịch, các trận đánh vang dội. Các di tích lịch sử trong thời kỳ này phần lớn là trụ sở hoạt động bí mật của các chiến sỹ cách mạng.
            Đặc biệt là vào năm 1943, nhân dịp lễ hội đền Hai Bà Trưng, nhân dân tỉnh Phúc Yên cũng đã tổ chức đấu tranh chống Pháp - Nhật. Cũng năm đó, đồng chí Trường Chinh về phổ biến Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Đảng, đền Hai Bà Trưng là địa điểm liên lạc bí mật của Đảng với các cơ sở cách mạng trong tỉnh. Cũng trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, Trung ương Đảng đã chọn xã Tráng Việt làm địa điểm xây xưởng in Tiến Bộ. Chính tại đây đã in lệnh Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
            Trải qua thời gian, các di tích lịch sử - văn hoá vẫn mãi mãi biểu thị lòng tri ân, uống nước nhớ nguồn của các thế hệ đối với những người có công với nước với dân; đồng thời còn là minh chứng cho đôi bàn tay khéo léo, óc sáng tạo của nhân dân, và là nơi để mỗi người dân Việt gửi gắm niềm tin, tâm hồn của mình sau những ngày lao động vất vả. Xin được mượn lời của giáo sư - tiến sĩ Lưu Trần Tiêu - Chủ tịch Hội đồng khoa học bảo tồn di sản văn hoá để làm lời kết cho bài viết này: “Mỗi di tích của chúng ta, dù lớn hay nhỏ đều được hun đúc từ truyền thống Việt Nam, bản sắc, cốt cách Việt Nam từ đời này kế tiếp đời khác thế là chúng trở lên quý giá đáng trân trọng và bảo vệ. Bảo vệ, tu bổ và tôn tạo di tích cũng chính là chúng ta đang đọc và thực hiện bản thông điệp không lời của tiền nhân gửi lại cho chúng ta, cho hôm nay và mai sau”.






Tuyến xe buýt 63 tại Mê Linh chính thức hoạt động



Tuyến buýt số 63 có lộ trình Khu công nghiệp Bắc Thăng Long - Tiến Thịnh (Mê Linh, Hà Nội) vừa được Tổng Công ty Vận tải Hà Nội (Transerco) đưa vào vận hành. 







Bị tật nguyền từ nhỏ, nhưng không đầu hàng số phận, thầy đã vượt lên nghịch cảnh để trở thành người thầy dìu dắt rất nhiều thế hệ học trò vào đại học.

Tới xã Đại Thịnh, Mê Linh, Hà Nội hỏi nhà thầy giáo Chu Quang Đức thì ai cũng biết. Năm nay đã 29 tuổi, thầy chỉ cao 1,1m và nặng 27 kg. Hiện nay thầy là giáo viên bộ môn Tin học Trường THPT Mê Linh.
Thầy Chu Quang Đức là một tấm gương sống về nghị lực, ý chí cho biết bao người noi theo. Bị tật nguyền từ nhỏ, nhưng không đầu hàng số phận, thầy đã vượt lên nghịch cảnh để trở thành người thầy dìu dắt rất nhiều thế hệ học trò vào đại học.

Người thầy trên xe lăn Chu Quang Đức.
Vượt lên số phận
Nhìn những nét chữ run rẩy trên bảng tính điện tử, được viết bởi bàn tay của một người hằng ngày vẫn phải làm bạn với chiếc xe lăn, mới hiểu hết được nghị lực và tấm lòng của người thầy ấy.
Thầy giáo Chu Quang Đức sinh năm 1984, là con trai của cựu chiến binh Chu Quang Chiến (Đại Thịnh, Mê Linh, Hà Nội) hiện nay thầy là giáo viên bộ môn Tin học tại Trường THPT Mê Linh. Điều không may đối với thầy là khi sinh ra thầy đã bị nhiễm chất độc da cam. Vì thế mà năm nay đã 29 tuổi, thế nhưng thầy chỉ cao 1,1m và nặng 27 kg. Bà con trong làng ngoài xã vẫn thường gọi đó là "thầy giáo tí hon".
Với những người có hoàn cảnh không may như thế thì đa số thường rất tự ti, bi quan về bản thân. Thầy Đức ban đầu cũng không ngoại lệ. Thầy bảo những ngày còn nhỏ cảm thấy rất mặc cảm với bạn bè, nhiều lúc xuất hiện ý nghĩ buông xuôi. Thế nhưng kể từ ngày thầy bắt đầu bước chân đi học thì cái ý nghĩ bi quan ấy đã được thầy xua tan đi hồi nào không hay. Thầy đã bắt đầu có những ý nghĩ mới về bản thân mình, về cuộc sống đang tiếp diễn.
Ý thức được sự thiệt thòi của bản thân mình, ngay từ ngày chập chững đi học cấp 1, cấp 2 thầy đã đặt ra cho mình một con đường duy nhất: đó là học và học. "Chỉ có học mới có thể giúp tôi chống lại được với sự thiệt thòi mà số phận đã dành cho mình. Và cũng chỉ có học mới giúp tôi có thể thay đổi được cuộc sống” - thầy tâm sự. “Từ ngày đi học không bao giờ tôi có ý định chán nản, bi quan nữa. Mọi nỗi buồn, thất vọng tôi đều dồn tất cả hết vào việc học, nhờ việc học mà tôi đã xua tan đi được những ám ảnh số phận, và có thêm nghị lực để thay đổi cuộc sống".
Với thầy thì điều thích nhất và cảm thấy thú vị nhất đó chính là mỗi ngày được đi học cùng người cha của mình. Ước mơ thay đổi cuộc sống của thầy đã được tiếp lửa bởi một người cựu chiến binh đầy tâm huyết và luôn sẵn lòng vì con cái. Đó là ông Chu Quang Chiến - cha của thầy Đức. "Nếu không có tình thương, sự chăm sóc ân cần của cha thì ước mơ của tôi cũng khó lòng thực hiện được. Bởi hơn ai hết, cha là người bạn đồng hành cùng tôi trên mọi nẻo đường của sự học".
Từ ngày học phổ thông, đều đặn ngày nào cũng như ngày nào, ông Chiến 2 buổi chở con đi học, về học. Cho đến khi thầy Đức đậu Đại học sư phạm Hà Nội II thì ông Chiến lại đồng hành cùng con đi hết quãng đời sinh viên. Rồi bây giờ, khi thầy Đức đã đi dạy học, ông Chiến lại tiếp tục cùng con gieo sự nghiệp trồng người.
Sinh ra đã không được may mắn, thầy Đức thiếu quá nhiều thứ để làm một con người bình thường. Thế nhưng ở thầy lại có một thứ mà nhiều người bình thường không có được. Đó chính là sức mạnh của lòng quyết tâm. Chính nhờ sự quyết tâm này mà thầy đã giành cho mình những thành tích mà nhiều người bình thường cũng phải kính nể. Những năm học phổ thông, thầy luôn là học sinh xuất sắc. Sau 4 năm hai cha con ở trọ đèn sách, thầy đã tốt nghiệp đại học với tấm bằng loại ưu. Bây giờ khi đang gánh trên vai trọng trách lớn, đó là ươm mầm những tài năng cho sự nghiệp giáo dục của nước nhà thì thầy Đức vẫn luôn được mọi người đánh giá cao bởi khả năng và sự nhiệt huyết của mình. Điều thầy luôn tâm niệm và truyền cho học sinh đó chính là phải học để có thể thay đổi cuộc sống như chính thầy đã từng làm với bản thân mình.

Một buổi học tại nhà thầy giáo Đức.
Hơn cả một Người thầy
Nếu ai lần đầu mới gặp sẽ rất ái ngại cho thầy bởi vì lo sợ rằng sức khỏe của thầy sẽ không thể đảm bảo cho công việc trồng người. Bởi việc dạy học phải hao tổn rất nhiều sức lực về cả trí óc lẫn tinh thần.
Năm 2011, thầy giáo Chu Quang Đức đã được tham dự Hội nghị biểu dương điển hình tiên tiến toàn quốc những nạn nhân chất độc màu da cam/dioxin, tổ chức tại Hà Nội. Chia tay thầy, chúng tôi vẫn nhớ như in hình ảnh người thầy nhỏ bé ngồi trên chiếc xe lăn với nét chữ run rẩy trên bảng tính điện tử để giảng bài cho các em. Câu chuyện về người thầy trên xe lăn Chu Quang Đức thêm một lần nữa khẳng định rằng, những bất hạnh của số phận dù có nghiệt ngã cũng không đánh ngã được con người. Bằng nghị lực và ý chí kiên cường, những người khuyết tật đã vươn lên như những bông hướng dương quay về hướng mặt trời!
Ấy vậy mà thầy Đức đã không nghĩ thế, bên cạnh giờ dạy chính ở lớp thì thầy cũng thường xuyên mở các lớp dạy thêm ở tại nhà vào thứ Bảy và Chủ nhật. Thầy chia sẻ: "Việc dạy các em không hề khiến tôi mệt mỏi mà ngược lại còn mang đến cho tôi rất nhiều niềm vui vì được đóng góp chút công sức để chắp cánh ước mơ cho các em. Tôi luôn nghĩ rằng mỗi người thầy nên tự xem mình như một người công nhân, phải làm việc miệt mài vì những thế hệ học sinh. Dù sức khỏe của tôi không được tốt như người bình thường, nhưng ít nhất mỗi ngày tôi vẫn phải làm việc đủ 8 tiếng".
Trong căn nhà nhỏ của mình, thầy Đức đã mở lớp dạy thêm ở bên ngoài hành lang. Với vài chiếc bàn học, một chiếc bảng điện tử và một chiếc máy chiếu, thầy Đức cứ miệt mài viết lên những con số và dòng chữ để truyền đạt lại kiến thức. Có một điều đặc biệt rằng thầy dạy nhiều lớp cùng một lúc. Khi chúng tôi đến thì thầy chỉ rằng: Đây là lớp 11, kia là học sinh 12... Thầy bảo đang giảng bài cho học sinh lớp 11 và giao bài tập cho học sinh lớp 12. Cứ thế thầy luân phiên giảng và chữa bài tập cho 2 lớp.
Trong lúc tiếp chuyện chúng tôi, thầy Đức cũng rất bận rộn bởi có rất nhiều phụ huynh gọi điện tới hỏi thăm tình hình học tập của con em họ. Thầy luôn tạo cho phụ huynh các em học sinh một sự tin tưởng. Thầy bảo với những phụ huynh đó rằng phải khai thác khả năng của học sinh, chứ không nên ép buộc học sinh phải theo một khuôn khổ nhất định nào đó, phải từ từ rèn luyện, khổ luyện nhiều thì mới nên được.
Lớp học của thầy Đức chủ yếu là học 4 môn Toán, Lý, Hóa, và Tin học. Những học sinh học ở lớp của thầy thường được kèm xuyên suốt 3 năm, từ lớp 10 cho tới lớp 12. Học sinh ở đây có rất nhiều người ở xa, khác xã và khác huyện nhưng vẫn đến lớp của thầy Đức để học. Những học sinh ấy luôn có một niềm tin mãnh liệt đối với người thầy đặc biệt này.
Trong quá trình giảng dạy tại nhà, thầy luôn hiểu hoàn cảnh từng học sinh, để tư vấn giúp các em cũng như gia đình chọn khối, chọn trường thi phù hợp. Em nào hoàn cảnh gia đình khó khăn thầy còn không thu học phí.
Kể từ năm 2009 tới nay, mỗi năm lớp học của thầy Đức đều có 9 -10 học sinh đỗ vào các trường đại học lớn. Như năm học 2011- 2012 vừa rồi, số lượng học sinh đậu đại học còn lên tới con số 15. Trong đó có những trường đại học lớn như Đại học Luật, Ngoại Ngữ, Sư phạm... Ngoài ra còn nhiều em đậu vào các trường Cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp. Nói về sự thành công của các học sinh, thầy không giấu khỏi niềm vui: "Hạnh phúc của tôi là được thấy các em đặt chân vào giảng đường đại học, để sau này thoát cảnh lam lũ...".
Thầy bảo: "Mình không làm được gì nhiều đâu, đơn giản là không có sự khác biệt nào hết. Nhiều người cũng có hoàn cảnh không may như mình, thế nhưng họ còn làm được nhiều hơn mình".





Đôi chân kỳ diệu của cô gái không tay



Vũ Thị Ánh Nguyệt sinh ra và lớn lên bên con sông Cà Lồ, bao quanh thôn Thái Lai, xã Tiến Thắng, Mê Linh, Hà Nội

 Số phận đã không cho Nguyệt có được đôi tay như bao người khác nhưng ông trời đã cho cô một đôi chân kỳ diệu…
Vũ Thị Ánh Nguyệt sinh ra và lớn lên bên con sông Cà Lồ, bao quanh thôn Thái Lai, xã Tiến Thắng, Mê Linh, Hà Nội. Không có đôi tay từ khi mới lọt lòng, cô gái quyết không đầu hàng số phận, đã làm nên những điều phi thường từ chính đôi chân của mình.

Nguyệt là con thứ ba trong gia đình có năm anh em, bố làm trong hợp tác xã nông nghiệp, mẹ là giáo viên cấp I. Không có đôi tay, số phận tưởng chừng như quá khắc nghiệt với cô gái nhỏ bé ấy. Nhưng chính sự thiệt thòi ấy lại là động lực phi thường giúp cô có thể vươn lên chiến thắng số phận.

Vũ Thị Ánh Nguyệt dùng chân xâu kim
Tới thăm Nguyệt hiện nay đang ở thôn Thái Lai, tôi được thấy cô mở cửa, rót nước mời khách, chăm sóc đứa cháu nhỏ và làm những công việc hàng ngày thành thạo như bất cứ người phụ nữ lành lặn nào khác. Chính đôi chân kỳ diệu đã giúp cô làm tất cả những việc đó.



Canh rau cải Thái Lai



Canh rau cải Thái Lai là sự kết hợp tinh tế giữa nguyên liệu tự trồng với cá rô tạo ra 1 đặc sản cho một vùng đất Thái lai anh hùng.

Làng Thái Lai, xã Tiến Thắng trước năm 1970 có trồng được giống rau cải bẹ cao to, xanh nõn. Khi cây được năm sáu lá, người ta tỉa bớt lá làm rau ăn bình thường. Khi cây cao độ ba gang tay, trên ngọn xuất hiện những chùm nụ thì người ta cắt phần ngọn gọi là vồng cải gồm ba bốn lá non và chồi nụ để luộc hoặc nấu canh; phần còn lại là lá già dùng để muối dưa.
Vồng cải luộc đã ngon nhưng dùng nấu canh cá rô thì ngon vô cùng. Người ta rửa sạch rau rồi thái nhỏ. Cá rô nướng chín, gỡ lấy thịt, bỏ xương. Đổ nước vào nồi, cho nước mắm cua thay muối, đun sôi rồi cho cá, cho rau vào đun chín nhừ. Cho rau thì là đã thái nhỏ, một nhánh gừng đã đập nát vào nồi, đảo đều rồi vớt ra ngay.


Mùa đông, ăn canh rau cải này vừa có vị ngọt của vồng cải, vị ngọt của cá rô nướng, vừa có hương thơm của thìa là, vị cay cay của gừng nóng ran cả người, rất sướng!





Những món ăn từ cây khoai nước



Người làng Yên Bài, xã Tự Lập trồng khoai nước vừa dùng làm lương thực phụ vừa làm thực phẩm.

Trước kia, người làng Yên Bài, xã Tự Lập trồng khoai nước vừa dùng làm lương thực phụ vừa làm thực phẩm. Người ta dùng tất cả các bộ phận của cây khoai nước chế biến nhiều món ăn ngon lành.
Khoai nước luộc hoặc bồi: Nếu luộc thì phải cắt hết rễ, cạo vỏ, rửa sạch nồi cho vào nồi luộc kỹ (nếu luộc sống, ăn rất ngứa). Thông thường người ta bồi, chỉ cắt rễ, không cần cạo vỏ, rửa sạch cho vào nồi rồi đặt nồi vào bếp tro, quấn rơm xung quanh nồi, quấn thật chặt rồi nỏi lửa.
Khi rơm cháy to đổ trấu lên (kín cả vung nồi) rồi ấp tro bếp lại. Sau 10 giờ (từ tối hôm trước đến sáng hôm sau) bắc nồi ra, đổ khoai vào rổ thưa, để nguội, ăn với muối vừng, muối lạc hoặc chấm mật, ăn no mà không chán.

Món khoai kho: Món khoai được hái về, rửa sạch, xếp vào nồi đất. Cho nước, tương vào xăm xắp mon rồi đun kỹ đến khi mon chín. Chú ý từ lúc bắt đầu đun đến khi mon chín, không được dùng đũa đảo, nếu đảo đủa, ăn mon sẽ ngứa. Để mon khoai thêm ngon miệng, có thể cho thêm một thìa mỡ lợn. Cũng có thể lấy nhân giã nhỏ, xếp một lượt mon, một lượt lạc rồi kho. Nếu được cá rô, chạch chấu kho cùng thì lại càng ngon. Nhớ đun nhỏ lửa cho đến khi nước cạn chỉ còn mon với cá khô thì thôi.
Món “sừng bò” khoai nước: Gọi là “sừng bò” vì nó là mâm khoai có hình giống sừng con bò. Cách ươm “sừng bò” như sau: bứng cả vầng khoai, cắt hết dọc sát mặt củ khoai, úp ngược cả vầng khoai xuống đất, vầng nọ úp lên vầng kia thành đống. Một thời gian sau, mầm khoai phát triển, không đâm xuống phía dưới được mà phải vòng lên, lách qua các kẽ hở, ngoi về hướng có ánh sáng nên có dáng cong như sừng bò. Khi ấy, người ta lật các vầng khoai lên, cắt lấy “sừng bò”; rồi lại úp các vầng khoai xuống để tiếp tục lấy “sừng bò” lần khác.
Vì không được tiếp xúc với ánh sáng nên mầm khoai rất mập, chiếc to bằng ống nứa tép, chiếc bé cũng bằng ngón tay trỏ, màu trắng nõn nà. “Sừng bò” cũng kho như mon thường với tương, với lạc hay với cá. Nó ngấm đủ các chất, ăn miếng sừng bò ngon hơn cả miếng cá.
Dọc khoai kho: Dọc khoai dùng để nuôi lợn là chính nhưng người ta vẫn chế biến được thành món ăn ngon miệng. Dọc khoai được tước hết vỏ tơ bên ngoài, chẻ dọc làm tư, cắt ngắn khoảng 5 – 7cm, đem phơi nắng cho khô rồi cất đi ăn dần. Thường được kho với cua đồng, cá tép. Chỉ cần mổ cá, làm cho cua sạch, cho vào nồi lẫn dọc khoai khô đã rửa hết bụi bậm. Tra tương, mỡ nước, lá nghệ thái nhỏ, đổ nước xăm xắp rồi đun kỹ đến khi cạn nước là được.
Các món ăn dân dã này bây giờ ít nơi có, nên đã trở thành món ăn hấp dẫn ở các nhà hàng đặc sản.





Giò đỗ tưởng là món ăn chay nhưng lại là món đặc trưng không thể thiếu trong mâm cỗ làng Phú Mỹ, xã Tự Lập

Nguyên liệu cho một chiếc giò là: đỗ xanh 1 kg, thịt mỡ lợn 100 g, lạc nhân 100g, nước mắm ngon nửa bát con. Cách làm cũng đơn giản: đỗ xanh ngâm nước, đãi sạch vỏ để ráo nước rồi cho vào cối giã thật nhỏ biến. Cho mỡ lợn thái hạt lựu vào cối, tiếp tục giã với đỗ cho thật nhuyền. Cho lạc nhân và nước mắm vào trộn đền rồi gói bằng lá chuối non đã hơ qua lửa. Sau đó, luộc kỹ  độ ba giờ liền là được.
Khoanh giò đỗ có màu vàng nhạt, bề mặt mịn có những nhân lạc điểm như hoa nở trên cánh đồng lúa sắp chín. Khi ăn giò, cắn nhẹ một miếng, đỗ đã tan đều trong miệng, người ăn cảm nhận đủ mùi vị bùi, thơm, béo, ngọt của các sản vật quê nhà.



Lươn on củ chuối Làng Văn Lôi



Một bữa lươn nấu củ chuối cần 3 con lươn chừng bẩy tám lạng, 3 lạng thịt lợn ba chỉ, nửa cân đậu phụ, 3 thìa mỡ nước, lưng bát tương, một lạng mẻ, nửa lạng nghệ đỏ, hạt tiêu bột, tía tô, ớt tươi, xương xông, lá lốt…

Ta có thể bắt chước các bà nội trợ Văn Lôi: thả lươn vào chậu, rắc một nắm muối cho lươn dãy dụa, ra hết nhớt rồi rửa sạch, để ráo nước. Lấy cật nứa vót nhọn chích vào hậu môn lươn, rạch một đường lên tận đầu nó, vứt hết ruột gan. Đặt lươn lên thớt, dùng chày dần cho mình lươn từ tròn chuyển sang bẹt, rồi thái miếng, mồi miếng dài độ ba phân. Tiếp theo là thái củ chuối, lấy phần, mặt trên gắn với thân giả chuối; thái thành sợi, ngâm vào nước lã có pha dấm hoặc mẻ cho bớt chát, bớt thâm; thái xong, bóp rửa thật sạch, để ráo nước. Thịt lươn, củ chuối chuẩn bị xong, đem ướp với tương, hạt tiêu, nước mẻ nghiền, nghệ giã nhỏ biến. Ướp độ 20 phút. Trong khi đó, rán đậu phụ và thái thành miếng, thái chỉ thịt lợn. Mọi thứ đổ chung một nồi, bắc lên bếp, đun nhỏ lửa.
Khi nồi lươn sôi sành sạch một lát thì cho nốt mỡ nước: tía tô, ớt thái nhỏ và xóc đều (không đảo bằng đũa) rồi bắc xuống. Vừa mở vung, chưa kịp đụng đũa đã thấy mùi thơm bay ra, chẳng cần nếm cũng biết cái món lươn om củ chuối làng Văn Lôi này “ngon phải biết”





Tâm linh và minh triết, không đọc đừng tiếc



Ở Châu Âu và một số nước khác, theo truyền thống, người ta vẫn theo một Tôn giáo nào đó, song họ tỏ ra sẵn sàng tin tưởng hơn vào “ánh sáng” của Khoa học và hiệu quả của công nghệ, hy vọng sẽ giải quyết được tất cả mọi vấn đề của tương lai. Rõ ràng, họ đang chuyển từ niềm khao khát Tâm linh: “Chúa bảo vệ và chăm sóc Phần hồn”, sang sự mong muốn tiện nghi và sung túc Phần xác. 

Ngày nay, Khoa học đứng trước nhiều vấn đề về đạo đức có tầm ảnh hưởng sẽ lớn hơn nhiều trong thế kỷ XXI: Phổ biến vũ khí hạt nhân, tàn phá môi trường, nhân bản vô tính, biến đổi gene và cả việc lựa chọn loại người, nhằm bảo vệ loại người “thượng đẳng” và loại bỏ người “hạ đẳng”, cũng ấp ủ nhiều lo ngại, như đã từng xảy ra.

Việc buôn bán vũ khí là một trong nhưng hình thức đáng lo ngại nhất của thói đạo đức giả của các nước giàu: 95% vũ khí của Thế giới là do 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc sản xuất và bán! Người ta coi đây là một thất bại hoàn toàn của đạo đức và ý thức trách nhiệm.
Đối lập Khoa học và Tâm linh là một thất bại trong hành trình đi tìm Tri thức.

Đối đầu giữa Khoa học và Tâm linh là một cuộc đối đầu giữa sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần. Lịch sử đã chứng minh rằng, Ý chí, Tinh thần luôn chiến thắng.

Để một chiếc đinh xuyên ngập vào gỗ, nếu dùng sức ép, thì phải sử dụng một lực khá lớn, quá sức người. Nhưng nếu dùng xung lực gõ nhịp từng nhát, thì chỉ cần sử dụng lực nhỏ hơn hàng nghìn lần. Hoặc để xô đổ một chiếc cột, nếu dùng một lực không đổi thì sức người là bất lực. Nhưng nếu dùng thao tác lắc đúng nhịp, thì công năng của sức người là hữu dụng. Tương tự, sức tàn phá, gây ra đổ gãy, của bão, không phải do vận tốc trung bình km/giờ, mà do các xung giật tức thời và sự đổi chiều đột ngột của gió, như một tác động lay lắc chiếc cột nói trên, gây ra.

Hoàn toàn như vậy đối với xung đột Tâm linh. Cơ chế mang tính qui luật ở đây là, sức bật của Phản kháng cân bằng (triệt tiêu) sự Xúc phạm. Một cái tát, một quả đấm, có gây đau cho thể xác, nhưng người ta có thê nhẫn nhịn để giữ lấy “chín sự lành”. Nhưng, nếu một câu nói, đường đột thản nhiên, xúc phạm nặng nề đến danh dự và lòng tự tôn, lập tức xung đột Tâm linh sẽ xảy ra, không thẻ kìm nén. Sức mạnh phản kháng được huy động, mãnh liệt đến mức mà lúc bình thường không thể giải thích được.

Một cuộc ngoại xâm, dày xéo lên non sông đất nước người, trước hết, là một hành động xúc phạm nặng nề Hồn thiêng dân tộc và Hồn thiêng sông núi. Như mặt sông êm đềm, bỗng bị xé nát bỡi con thuyền cao tốc, sẽ dậy lên sóng lớn. Xung đột Tâm linh bùng phát như những con sóng có sức mạnh nhấn chìm.

Ở đây, Cái vô hạn của Tâm linh vượt lên trên cái hữu hạn của Khoa học. Tại sao Khoa học lại hữu hạn ? Xin trích nguyên văn phát biểu kết luận của Giáo sư Vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận, trong tác phẩm nổi tiếng “Hỗn độn và hài hòa”: “Không bao giờ Khoa học có thể đi đến cuối con đường. Kết quả thần kỳ của (Định lý) Godel đã chứng minh cho chúng ta thấy những giới hạn của lý trí. Do vậy con người phải cầu viện đến các loại tri thức khác, như trực giác huyền bí hoặc Tôn giáo được thông tin và soi sáng bởi Khoa học hiện đại...”

ST



Vừa qua, Huyện đoàn Mê Linh tổ chức buổi toạ đàm “Tuổi trẻ Mê Linh chung tay xây dựng nông thôn mới”, Huyện đoàn Mê Linh tổ chức buổi toạ đàm “Tuổi trẻ Mê Linh chung tay xây dựng nông thôn mới”

Tới dự buổi toạ đàm, về phía thành phố có đ/c Nguyễn Thị Ngà – UV BTV TƯ Đoàn, Bí thư Thành đoàn Hà Nội, về phía huyện Mê Linh có đ/c Lưu Tiến Long – Thành uỷ viên, Bí thư huyện uỷ, Chủ trì buổi toạ đàm; đ/c Đoàn Văn Trọng, Thường vụ huyện uỷ, phó chủ tịch UBND huyện; các đ/c đại diện lãnh đạo các phòng, ban, ngành, đoàn thể huyện,; các đ/c bí thư, phó bí thư đoàn các xã, thị trấn và đông đảo đoàn viên, thanh niên trên địa bàn huyện.




 
Toàn cảnh buổi Tọa đàm “ Tuổi trẻ Mê Linh chung tay xây dựng NTM” 
Hưởng ứng chương trình số 07- CTr/Hu của Huyện uỷ Mê Linh về “Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân giai đoạn 2011- 2015 và Kế hoạch 34 của Ban Thường vụ Thành đoàn Hà Nội về “ Tuổi trẻ thủ đô tham gia xây dựng nông thôn mới”. Sau hơn 2 năm thực hiện, Huyện đoàn Mê Linh đã có những đóng góp tích cực vào công tác xây dựng nông thôn mới của huyện nhà như:
 Về công tác tuyên truyền, các cơ sở đoàn từ huyện đến cơ sở đã tích cực tuyên truyền đến nhân dân và doàn viên thanh niên về công tác xây dựng nông thôn mới thông qua hệ thống loa truyền thanh huyện, các xã, thị trấn.; các buổi sinh hoạt chi đoàn, chi hội, chi đội  và các hội thi, hội diễn ở các địa phương, đồng thời biểu dương những mô hình làm kinh tế giỏi, những cách làm hay..để nhân rộng các mô hình tiên tiến. 
Đ/c Nguyễn Trọng Phan – Bí thư huyện đoàn Mê Linh phát biểu tại tọa đàm 
Trong việc tham gia phát triển kinh tế nông thôn, Huyện đoàn đứng ra tín chấp vớí ngân hang CSXH huyện giải ngân hơn 2 tỷ đồng cho các tổ vay vốn tại 2 xã Hoàng Kim, Thạch Đà và trên 1 tỷ đồng từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm cho thanh niên với 04 dự án vay vốn phát triển kinh tế, qua đó đã giải quyết việc làm cho 60 lao động vơi sthu nhập bình quân 3,5 đén 4 triệu đồng/người/tháng; tổ chức các lớp tập huấn ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho thanh niên ở 100% các xã trên địa bàn.
Đóng góp vào việc tham gia xây dựng đời sống văn hoá ở nông thôn, Huyện đoàn Mê Linh đã phối hợp với Đoàn thanh niên tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng hỗ trợ xây dựng nhà nhân ái cho cựu thanh niên xung phong có hoàn cảnh khó khăn với số tiền hơn 50 triệu đồng; phối hợp với Đoàn thanh niên Ngân hang TMCP Công thương Việt Nam tặng 400 suất quà trị giá gần 80 triệu đồng cho các gia đình chính sách, trẻ em nghèo trên địa bàn
Tham gia vào xây dựng cảnh quan, bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Huyện đoàn đã duy trì các buổi vệ sinh môi trường vào các ngày thứ 7, chủ nhật hang tuần, thầnh lập trên 40 đội thanh niên tình nguyện vì môi trường, duy trì các đội “Giao thông xanh” tại các trường THPT trực tại các nút giao thông quan trọng như ngã tư và cổng các trường học vào 6h45 đến 7h15 và từ 17h đến 17h30. Trong buổi lễ ra quân Tháng Thanh niên năm 2012 với chủ đề “Tuổi trẻ Mê Linh chung tay xây dựng nông thôn mới”, các đoàn viên, thanh niên Mê Linh đã tích cực khơi thông dòng chảy được hơn 3km kênh mương, thu gom đựơc trên 12 tán rác thải các loại. 
Đ/c Lưu Tiến Long – Thành ủy viên – Bí thư Huyện ủy Mê linh phát biểu kết luận tọa đàm 
Phát biểu kết luận buổi toạ đàm, đ/c Lưu Tiến Long - Bí thư huyện uỷ Mê Linh đã ghi nhận và biểu dương những cố gắng, nỗ lực của các đồng chí đoàn viên, thanh niên trong công tác xây dựng nông thôn mới. Trong thời gian tới, đ/c mong muốn tổ chức Đoàn thanh niên từ huyện đến cơ sở tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xung kích, tình nguyện đi đầu trong các phong trào góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới của địa phương. Đó chính là hành động thiết thực nhất nhằm hưởng ứng Tháng Thanh niên 2013 và kỷ niệm 82 năm ngày thành lập Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh."
Cũng tại buổi Tọa đàm, các đại biểu tham gia toạ đàm đã tham gia ủng hộ Quỹ xây dựng sân chơi cho thiếu nhi và chương trình “ Ngọn đèn tri ân” do huyện đoàn phát động./.
                                                                                                            
Đột phá trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Mê Linh

Hơn hai năm, cùng với 18 huyện, thị xã của TP Hà Nội, huyện Mê Linh đã nỗ lực triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM)

Cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc với nhiều cách làm sáng tạo, mang tính đột phá. Diện mạo một nông thôn văn minh, hiện đại kết hợp bản sắc văn hóa truyền thống đang dần hình thành trên quê hương của Hai Bà Trưng anh hùng.


Đơn vị làm tốt công tác quy hoạch
Còn nhớ, khi TP Hà Nội triển khai chương trình xây dựng NTM (năm 2010), huyện Mê Linh tiến hành một khảo sát thực trạng nông thôn. Thời điểm đó, cả huyện chỉ có một tiêu chí đạt là ANTT xã hội được giữ vững; 7/19 tiêu chí cơ bản đạt trên 50% yêu cầu như; còn lại tới 11/19 tiêu chí chưa đạt; tỷ lệ hộ nghèo còn hơn 8,6%.
Xác định quy hoạch là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, UBND huyện Mê Linh đã chủ động triển khai quy hoạch một cách bài bản, khoa học. Ngày 16-3-2012, huyện Mê Linh, một trong những địa phương sớm nhất của TP công bố đồ án quy hoạch xây dựng NTM. Theo đó, đường ngõ xóm ở các xã sẽ được cải tạo, chỉnh trang, đảm bảo vệ sinh và đi lại thuận lợi. Ngoài ra, huyện còn định hướng tổ chức không gian vùng sản xuất, tổ chức mạng lưới điểm dân cư nông thôn, trụ sở đơn vị hành chính, trường học, công trình công cộng, hệ thống các di tích văn hóa lịch sử bảo đảm phù hợp với đặc điểm từng vùng. Đến nay, huyện duyệt đề án xây dựng NTM cho 16/16 xã, lập quy hoạch 13/16 xã, chỉ còn 3 xã chưa phê duyệt do nằm trong quy hoạch dự án và phát triển đô thị.
Dồn điền đổi thửa vượt chỉ tiêu
Sau bước quy hoạch, huyện Mê Linh đã tập trung cao độ cho việc dồn điền đổi thửa, xây dựng cánh đồng mẫu lớn. Tuy nhiên, thời gian đầu cũng gặp khó khăn, UBND huyện phải đã tăng cường chỉ đạo các xã tổ chức họp bàn, vận động, giải thích cho người dân hiểu. Các ngành, đoàn thể từ huyện đến xã cũng vào cuộc tích cực, phát huy tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, hội viên nhờ đó từ việc khó, huyện đã tạo được sự đồng thuận. Năm 2012, toàn huyện đã dồn điền đổi thửa được 2.186ha, đạt 147,5% kế hoạch TP giao. Huyện đã lập quy hoạch, kế hoạch đào đắp đường trục chính nội đồng tại 10 xã, với chiều dài 63,5 km; đào đắp bờ vùng, bờ thửa theo bản đồ quy hoạch với quy mô 186,8 km, kinh phí 21,5 tỷ đồng. Đây là cơ sở để huyện đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, đưa cơ giới hóa vào đồng ruộng nhằm nâng cao giá trị thu nhập trên diện tích đất canh tác. Mê Linh đã chuyển đổi 280ha sang trồng lúa hàng hóa chất lượng cao; xây dựng mô hình trồng hoa hồng chất lượng cao; chuối tiêu hồng và chuyển đổi vùng bãi, ven sông sang sản xuất rau an toàn (RAT). Đến nay, đã có 4 xã được Chi cục BVTV Hà Nội cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất RAT... Những nỗ lực đó góp phần nâng thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn của huyện lên 22,56 triệu đồng/người, tăng hơn 9 triệu đồng so với năm 2010.
Dồn điền đổi thửa thành công tạo điều kiện cho đưa cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp
Điểm sáng Liên Mạc
         Liên Mạc, xã làm điểm xây dựng NTM qua rà soát năm 2010 chỉ có 1 tiêu chí đạt chuẩn; 10/19 tiêu chí  đạt ở mức thấp. Sau hơn hai năm nỗ lực đến nay, Liên Mạc cơ bản hoàn thành 19/19 tiêu chí với nhiều chỉ tiêu đạt cao như thu nhập bình quân đầu người đạt 26 triệu đồng/người/năm (năm 2010 là 13,6 triệu đồng); tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 10,06% xuống còn 2,99%; hơn 70% người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế. Các trục đường làng, đường giao thông nội đồng được bê tông hóa. Các tiêu chí khác như quy hoạch, thủy lợi, điện, bưu điện, nhà ở dân cư, hình thức tổ chức sản xuất, văn hóa, hệ thống tổ chức chính trị - xã hội, môi trường, giáo dục, trường học… đều đã đạt chuẩn.  

            Kinh nghiệm của xã Liên Mạc là chú trọng tuyên truyền trong cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ ý nghĩa, thực hiện tốt phương châm "Xây dựng NTM dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân hưởng thụ". Kết quả, toàn xã  đã dồn điền đổi thửa hơn 400 ha; nhân dân hiến hơn 9.6 ha đất để làm bờ vùng, bờ thửa. Bên cạnh đó, xã quy hoạch 4 vùng sản xuất: rau sạch (17ha), chăn nuôi tập trung (13ha), nuôi thủy sản gần (2ha) và trồng lúa (503ha). Những vướng mắc trong quy hoạch đã được xã xử lý thấu đáo, đặc biệt là các ý kiến phản ánh được tiếp thu nghiêm túc, giải quyết kịp thời, phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của đại đa số nhân dân. 

            Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị  khi về thăm xã Liên Mạc đã đánh giá cao quyết tâm của lãnh đạo xã, huyện Mê Linh trong quá trình xây dựng NTM, nhất là việc lựa chọn những việc khó tập trung chỉ đạo, tạo đột phá như dồn điền, đổi thửa. Khu vực ngoại thành trong đó có xã Liên Mạc đã có nhiều khởi sắc và phát triển mau lẹ; phong trào xây dựng NTM đang từng bước đi vào cuộc sống. Từ đó cho thấy, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng, nhà nước; chương trình xây dựng NTM sẽ sớm đạt mục tiêu đề ra.  Đồng chí Bí thư Thành ủy cho rằng, kết quả xây dựng NTM của xã Liên Mạc là bài học rất tốt để TP chỉ đạo nhân rộng ra các địa phương khác. Thực tế ở huyện Mê Linh, từ điểm sáng Liên Mạc đến nay có thêm hai xã Tiền Phong và Mê Linh đạt từ 10-13 tiêu chí; 13 xã đạt dưới 10 tiêu chí.
Xây dựng NTM là trách nhiệm của hệ thống chính trị phải vào cuộc khơi dậy tinh thần tự chủ của người dân, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, xây dựng đời sống văn hoá phong phú, hình thành một nông thôn mới hiện đại những vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Thành công từ xây dựng NTM ở Liên Mạc nói riêng và huyện Mê Linh nói chung đã và đang minh chứng điều đó./.




Bộ tiêu chí nông thôn mới


Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới là một chương trình tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng

  • Tiêu chí 1: Quy hoạch và thực hiện quy hoạch
  1.1. Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất nông nghiệp, hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ
  1.2. Quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội - môi trường theo chuẩn mới
  1.3. Quy hoạch phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có theo hướng văn minh, bảo tồn được bản sắc văn hóa tốt đẹp
  • Tiêu chí 2: Giao thông
  2.1. Tỷ lệ km đường trục xã, liên xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ GTVT
  2.2. Tỷ lệ km đường trục thôn, xóm được cứng hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ GTVT
  2.3. Tỷ lệ km đường ngõ, xóm sạch và không lầy lội vào mùa mưa
  2.4. Tỷ lệ km đường trục chính nội đồng được cứng hóa, xe cơ giới đi lại thuận tiện
Tiêu chí 3: Thủy lợi
  3.1. Hệ thống thủy lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất và dân sinh
  3.2. Tỷ lệ km kênh mương do xã quản lý được kiên cố hóa
Tiêu chí 4: Điện
  4.1. Hệ thống điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của ngành điện
  4.2. Tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an toàn từ các nguồn
Tiêu chí 5: Trường học
  Tỷ lệ trường học các cấp: mầm non, mẫu giáo, tiểu học, THCS có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia
Tiêu chí 6: Cơ sở vật chất văn hóa
  6.1. Nhà văn hóa và khu thể thao xã đạt chuẩn của Bộ VH-TT-DL
  6.2. Tỷ lệ thôn có nhà văn hóa và khu thể thao thôn đạt quy định của Bộ VH-TT-DL
Tiêu chí 7: Chợ nông thôn
  Chợ đạt chuẩn của Bộ Xây dựng
Tiêu chí 8: Bưu điện
  8.1. Có điểm phục vụ bưu chính viễn thông
  8.2. Có Internet đến thôn
Tiêu chí 9: Nhà ở dân cư
  9.1. Nhà tạm, dột nát
  9.2. Tỷ lệ hộ có nhà ở đạt tiêu chuẩn của Bộ Xây dựng
Tiêu chí 10: Thu nhập
  Thu nhập bình quân đầu người /năm so với mức bình quân chung của tỉnh
Tiêu chí 11: Hộ nghèo
Tỷ lệ hộ nghèo
Tiêu chí 12: Cơ cấu lao động
  Tỷ lệ lao động trong độ tuổi làm việc trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp
Tiêu chí 13: Hình thức tổ chức sản xuất
  Có tổ hợp tác hoặc hợp tác xã hoạt động có hiệu quả
Tiêu chí 14: Giáo dục
  14.1. Phổ biến giáo dục trung học
  14.2. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học trung học (phổ thông, bổ túc, học nghề)
  14.3. Tỷ lệ lao động qua đào tạo
  • Tiêu chí 15: Y tế
  15.1. Tỷ lệ người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế
  15.2. Y tế xã đạt chuẩn quốc gia
Tiêu chí 16: Văn hóa
  Xã có từ 70% số thôn, bản trở lên đạt tiêu chuẩn làng văn hóa theo quy định của Bộ VH-TT-DL
Tiêu chí 17: Môi trường
  17.1. Tỷ lệ hộ được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn Quốc gia
  17.2. Các cơ sở SX-KD đạt tiêu chuẩn về môi trường
  17.3. Không có các hoạt động gây suy giảm môi trường và có các hoạt động phát triển môi trường xanh, sạch, đẹp
  17.4. Nghĩa trang được xây dựng theo quy hoạch
  17.5. Chất thải, nước thải được thu gom và xử lý theo quy định
Tiêu chí 18: Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh
  18.1. Cán bộ xã đạt chuẩn
  18.2. Có đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở theo quy định
  18.3. Đản bộ, chính quyền xã đạt tiêu chuẩn "trong sạch, vững mạnh"
  18.4. Các tổ chức đoàn thể chính trị của xã đều đạt danh hiệu tiên tiến trở lên
Tiêu chí 19: An ninh, trật tự xã hội được giữ vững
  An ninh, trật tự xã hội được giữ vững


Xã Liên Mạc - Điểm sáng xây dựng nông thôn mới ở huyện Mê Linh - Hà Nội


 Qua hơn 2 năm triển khai xây dựng, đến nay xã Liên Mạc đã cơ bản hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn mới (NTM). Kinh tế của xã phát triển, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển đồng bộ, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao.

 Nằm cách cầu Thăng Long hơn chục km về phía bắc tả ngạn sông Hồng, có một vùng quê nhiều năm trước đây sản xuất nông nghiệp thuần nông, đời sống của người dân gặp rất nhiều khó khăn, nhưng hiện nay đã vươn lên trở thành điểm sáng xây dựng NTM của huyện Mê Linh - Đó là xã Liên Mạc. Xã Liên Mạc có diện tích tự nhiên gần 817 ha, trong đó đất nông nghiệp có 614 ha; dân số hơn 14 nghìn người ở 3 thôn: Bồng Mạc, Yên Mạc và Xa Mạc. Đảng bộ xã có hơn 430 đảng viên, sinh hoạt ở 17 chi bộ.  
        Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, của thành phố Hà Nội về xây dựng NTM và đặc biệt thực hiện chương trình 02 của Thành uỷ Hà Nội về "phát triển nông nghiệp, xây dựng NTM, từng bước nâng cao đời sống nông dân", nhằm thu hút mọi nguồn lực đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn để nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, huyện Mê Linh đã sớm triển khai xây dựng NTM trên địa bàn toàn huyện và chọn xã Liên Mạc làm điểm xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2012. 

          Cả hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở đã khẩn trương, quyết liệt vào cuộc chung tay xây dựng nông thôn mới. Huyện uỷ đã ban hành Nghị quyết về xây dựng NTM, Chương trình phát triển, xây dựng nông thôn mới từng bước nâng cao đời sống nông dân gia đoạn 2011 - 2015, tổ chức phát động "phong trào toàn dân chung sức xây dựng NTM";  HĐND huyện thông qua Nghị quyết về xây dựng NTM huyện Mê Linh và chọn xã Liên Mạc để triển khai thực hiện thí điểm mô hình NTM; UBND huyện cũng sớm khảo sát thực trạng nông thôn trên địa bàn, ban hành các Quyết định, lập đề án trình Thành phố phê duyệt và xây dựng Kế hoạch, phương án thực hiện Nghị quyết của Huỵện uỷ - HĐND huyện, các văn bản chỉ đạo của Ban chỉ đạo Chương trình và thực hiện Đề án xây dựng nông thôn mới ở huyện Mê Linh giai đoạn 2010 - 2020, định hướng đến năm 2030. Huyện đã thành lập Ban chỉ đạo, phân công nhiệm vụ cho các thành viên xây dựng NTM do đồng chí Bí thư Huyện uỷ làm Trưởng ban, đồng chí Phó bí thư - Chủ tịch UBND huyện làm phó Trưởng ban thường trực, các đồng chí Trưởng các phòng, ban, ngành, đoàn thể làm thành viên. 

        Đối với xã điểm Liên Mạc, tháng 11 năm 2010 UBND thành phố Hà Nội đã phê duyệt Đề án NTM xã Liên Mạc. Ở thời điểm đó mặc dù có nhiều lợi thế về địa lý, diện tích đất đai, nguồn nhân lực dồi dào, người dân chịu thương chịu khó, ham học, hay làm, nhưng  trước khi xây dựng NTM, nông nghiệp và nông thôn  Liên Mạc chưa  bền vững, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn, nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế -  xã hội cần được giải quyết. 

    Đ/c  Phạm Quang Nghị - UVBCT – Bí thư Thành ủy Hà Nội
                      kiểm tra công tác xây dựng NTM tại xã Liên Mạc huyện Mê Linh  
       Qua rà soát cả xã chỉ có 1 tiêu chí đạt chuẩn NTM là hệ thống an ninh trật tự xã hội đựơc giữ vững; có 8/19 tiêu chí đạt trên 50% là: Giao thông nông thôn, nhà ở dân cư, hệ thống điện, văn hoá, bưu điện, hệ thống tổ chức chính trị, môi trường, giáo dục; có 10/19 chưa đạt hoặc đạt thấp là: y tế, quy hoạch, trường học, thuỷ lợi, cơ sở văn hoá xã, các hình thức tổ chức sản xuất, chợ, thu nhập, cơ cấu lao động. Đặc biệt, tỷ lệ hộ nghèo lại rất cao, hơn 11%; chất lượng quy hoạch thấp, chưa được thường xuyên cập nhật, rà soát, điều chỉnh, bổ sung, nhất là quy hoạch phát triển các khu dân cư nông thôn, quy hoạch sử dụng đất… Ngoài ra, xã còn có hơn 90% dân số làm nông nghiệp nên việc tăng thu nhập cho người dân rất khó khăn. Đồng ruộng manh mún, nhỏ lẻ và có tới 2/3 là đồng trũng. Hơn nữa hệ thống giao thông thủy lợi nội đồng, kênh mương được kiên cố hóa còn ở mức thấp nên cũng ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp.v.v..           

       Ngay sau khi được thành phố phê duyệt Đề án, xã Liên Mạc đã nhanh chóng triển khai xây dựng NTM. Đảng uỷ xã đã có Nghị quyết chuyên đề về xây dựng NTM và ra Quyết định thành lập BCĐ cấp xã. UBND xã xây dựng Kế hoạch về triển khai xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2012.
        Công tác tuyên truyền được đi trước một bước. Thông qua hệ thống báo, đài từ Trung ương đến địa phương, các chương trình văn hóa, văn nghệ, thể thao, các panô, áp phíc, băng zôn...và đặc biệt đã có sự phối hợp triển khai đồng bộ của các cấp, các ngành, đoàn thể như: Hội phụ nữ tổ chức hội thảo với chủ đề "Vai trò của phụ nữ trong xây dựng nông thôn mới", hội thi "Phụ nữ với công tác bảo vệ môi trường, xây dựng nông mới". Ngành giáo dục phát động cuộc thi "Vẽ tranh và thi tìm hiểu về xây dựng NTM"; Biên soạn nội dung dạy và học về xây dựng NTM đối với các trường, lồng vào môn học tự chọn; Ngành nông nghiệp tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật sản xuất lúa lai năng suất cao, kỹ thuật sản xuất hoa, cây cảnh, rau an toàn; Tổ chức các buổi tuyên truyền về nước sạch, vệ sinh môi trường và an toàn thực phẩm; Hội cựu chiến binh quán triệt cho hội viên hưởng ứng và thực hiện nghiêm túc công tác dồn điền đổi thửa; Đoàn thanh niên phát động mô hình xây dựng chi đoàn NTM. Mặt trận tổ quốc tuyên truyền các tiêu chí cơ bản cần phấn đấu đạt được trong chương trình xây dựng nông thôn mới. Đài truyền thanh mở chuyên mục "Toàn dân chung sức xây dựng NTM"; Ban tuyên giáo Huyện uỷ mở chuyên đề xây dựng NTM trên Bản tin Mê Linh. Trên cơ sở đó đã góp phần tạo sự chuyển biến trong nhận thức của cán bộ, nhân dân, giúp nhân dân nhận thức rõ: xây dựng NTM là chủ trương lớn mà mục tiêu cao nhất là đem lại lợi ích cho nhân dân. Từ đó, vận động để mọi người dân tự nguyện hưởng ứng và tạo sự đồng thuận, tích cực tham gia đóng góp xây dựng quê hương. 
        Xã còn kết hợp với các ban, ngành, đoàn thể của huyện tổ chức các lớp tập huấn cho đội ngũ cán bộ xã, thôn. Đồng thời, tổ chức cho các thành viên BCĐ xây dựng NTM đi thăm quan, học tập ở một số mô hình tiêu biểu trong và ngoài Thành phố. Kết hợp với Trung tâm dạy nghề huyện mở các lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn, trong đó tập trung vào các nghề truyền thống của địa phương như: mộc, đan lát, thêu ren...            

        Công tác quy hoạch đựơc xã Liên Mạc xác định là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. UBND xã đã phối hợp với các phòng, ban, ngành, đơn vị của huyện để lập Đề án quy hoạch NTM, tổ chức không gian vùng sản xuất, tổ chức điểm dân cư nông thôn, trụ sở hành chính, trường học, các công trình công cộng, hệ thống các di tích lịch sử - văn hoá,....vv. Điều đáng nói ở đây là các quy hoạch đều phù hợp với đặc điểm, tính chất của  từng vùng và không làm mất đi bản sắc, hồn cốt văn hoá truyền thống của địa phương. Riêng về sản xuất nông nghiệp, xã đã quy hoạch thành 4 vùng sản xuất thâm canh gồm: vùng sản xuất rau sạch hơn 17 ha, vùng chăn nuôi tập trung hơn 13 ha, vùng chăn nuôi thuỷ sản gần 27 ha, vùng sản xuất trồng lúa 503 ha. Quá trình lập quy hoạch ở Liên Mạc dựa trên quy hoạch chung của huyện. Sau khi tổ chức điều tra thực trạng, dự thảo quy hoạch, sau đó công khai đưa về nhân dân thảo luận, bàn bạc, đóng góp ý kiến và tiếp theo lấy ý kiến quy hoạch của các cơ quan chức năng rồi mới trình phê duyệt. Bởi vậy những vướng mắc của người dân đã được tháo gỡ kịp thời.   
         Là xã được chọn làm điểm xây dựng nông thôn mới của huyện, để sớm xây dựng thành công mô hình, Liên Mạc đã sáng tạo trong cách làm cũng như sự điều chỉnh kịp thời trong thực hiện theo hướng hiệu quả, bền vững. Đồng thời chọn việc khó nhất là dồn điền đổi thửa để tạo đột phá. Khi chưa dồn điền đổi thửa, ruộng đất ở Liên Mạc rất manh mún, trung bình mỗi hộ có từ 7 đến 10 thửa ruông, sản xuất gặp nhiều khó khăn nên mặc dù người dân rất cố gắng nhưng năng suất cây trồng vẫn thấp. Do nhận thức được tác dụng của dồn điền đổi thửa rất thuận lợi cho việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển sản xuất nông nghiệp, đưa cơ giới hoá vào sản xuất, chuyển một phần lực lượng lao động sang phát triển ngành nghề, làm nền tảng nâng cao giá trị đất canh tác,... nên khi có chủ trương dồn điền đổi thửa đã nhanh chóng tiếp thu, thực hiện.  

       Tuy nhiên, việc triển khai ban đầu không hề đơn giản, tâm lý sản xuất nhỏ lẻ đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân, một số hộ không muốn tham gia. Hàng chục cuộc họp đã được xã  và các thôn tổ chức, vận động, giải thích cho người dân hiểu. Đảng uỷ, chính quyền xã cũng đã chỉ đạo các hội, đoàn thể xuống vận động hội viên của mình. Nhiều cách làm năng động, sáng tạo cũng đã được triển khai nên đã có 100% hộ dân tự giác viết bản cam kết hưởng ứng công cuộc xây dựng NTM; xã đã chỉ đạo thành lập Ban chỉ đạo dồn điền đổi thửa xã và 3 tiểu ban ở 3 thôn. Đồng thời tổ chức trưng bày, giới thiệu các phương án quy hoạch lại đồng ruộng kèm với hạ tầng giao thông thuận loại để người dân thấy hiệu quả thực sự của dồn điền đổi thửa. Kết quả sau hơn 4 tháng triển khai, Liên Mạc đã hoàn thành dồn điền đổi thửa ở hơn 400 ha ( đạt 100% kế hoạch) của gần 3000 hộ dân. Tình trạng mang mún ruộng đồng giờ đây đã chấm dứt. Mỗi gia đình chỉ sở hữu 1 đến 2 thửa ruộng thay vì 7 đến 10 mảnh nhỏ lẻ như trước đây. Thậm chí ở nhiều gia đình, dòng họ nhận chung ruộng tạo nên những liền mảnh rộng nhiều mẫu - một hình thức tổ chức liên kết sản xuất theo cách "Nông hộ nhỏ, cánh đồng lớn" xuất hiện. Những " Cánh đồng mẫu lớn" ở Liên Mạc đã ra đời. Thửa nhỏ nhất cũng có diện tích gần 400 m2, còn thửa lớn nhất lên đến hơn 5.400 m2. Số thửa ruộng toàn xã từ hơn 15.700 thửa đã giảm xuống còn hơn 3.600 thửa (giảm 12.000 thửa). Trên cánh đồng mẫu lớn, nông dân sử dụng cùng một loại giống, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, thực hiện theo quy trình sản xuất đồng loạt, tạo ra sản phẩm chất lượng đồng nhất. Các thửa ruộng ở đây đều có đường giao thông được bê tông hoá, rộng từ 3.5 đến 7 m chạy qua  và hệ thống kênh mương tưới, tiêu ở 2 đầu ruộng. 





    Đ/c  Phạm Quang Nghị - UVBCT – Bí thư Thành ủy Hà Nội
    Trao đổi với nông dân xã Liên Mạc huyện Mê Linh          
        Từ sự đồng thuận cao, nhân dân Liên Mạc cũng đã hiến hơn 9,6 ha đất để làm bờ vùng, bờ thửa, kênh mương dẫn nước. rất nhiều hộ dân cũng đã tự nguyện tham gia đóng góp ngày công lao động để làm hạ tầng sản xuất.
       Liên Mạc cũng đã quy hoạch lại vùng sản xuất nông nghiệp; tập trung vào việc đưa những cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao vào sản xuất để từng bước hình thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung chất lượng cao. Trong đó, ưu tiên xây dựng vùng sản xuất rau an toàn; xây dựng các vùng sản xuất lúa ứng dụng giống mới với diện tích hơn 503 ha; quy hoạch 3 khu nuôi trồng thủy sản tập trung kết hợp với chăn nuôi gia cầm, trồng cây ăn quả theo hướng đa canh, đa mục tiêu; quy hoạch khu chăn nuôi tập trung xa khu dân cư,  xây dựng khu giết mổ gia súc, gia cầm tập trung, xây dựng phương án hỗ trợ và vận động xây dựng 800 công trình xử lý chất thải chăn nuôi và xây dựng hệ thống thu gom rác thải tập trung.
 Xã đã triển khai mô hình sản xuất lúa hàng hóa chất lượng cao với diện tích 100 ha ở thôn Bồng Mạc, kiện toàn 3 HTX dịch vụ nông nghiệp, triển khai mô hình trình diễn khoai tây bằng phương pháp làm đất tối thiểu cho năng suất cao.
Với phương châm " Xây dựng nông thôn mới dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân hưởng thụ" công tác xây dựng NTM ở Liên Mạc luôn được gắn với cuộc các vận động " Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá",  "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Mọi việc đều được đưa ra bàn thảo công khai dân chủ nên đã huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, tạo sự đồng thuận, đồng tâm, hiệp lực của toàn Đảng bộ và nhân dân trong xã hăng hái thi đua đẩy mạnh các phong trào hành động cách mạng, tham gia đóng góp sức người, sức của xây dựng NTM. Công tác xã hội hoá việc huy động mọi nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn và phát triển sản xuất nông nghiệp được chú trọng. Đến nay xã đã và đang triển khai xây dựng, hoàn thành 75 dự án với số kinh phí đã bố trí, huy động để thực hiện đạt gần 150 tỷ đồng, trên tổng số hơn 318 tỷ đồng tổng kinh phí đề án đựơc phê duyệt. Trong đó Nhà nước đóng vai trò định hướng, hỗ trợ, còn lại chủ yếu là vốn xã hội hoá.
Việc triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn ở đây được triển khai thuận lợi. Trong xây dựng cơ bản, những công trình ở xóm, thôn, ban chỉ đạo xây dựng NTM xã giao cho các xóm, thôn đảm nhận phối hợp cùng doanh nghiệp triển khai, bà con tham gia đóng góp ngày công. Nhờ đó người dân có điều kiện trực tiếp tham gia và giám sát quá trình xây dựng NTM. Bởi vậy nhiều công trình đạt chất lượng, hiệu quả cao. Tiêu biểu như: 13 công trình về giao thông nội đồng kết hợp nâng cấp hệ thống mương thuỷ lợi; 9 công trình trường học gồm nhà lớp học, nhà thể chất, phòng bộ môn; công trình cải tạo trạm y tế xã; công trình xây dựng 3 trạm biến áp điện và thay thế, cải tạo nâng cấp hệ thống dây dẫn và cột điện,...
Qua hơn 2 năm triển khai xây dựng, từ chỗ chỉ có 1 tiêu chí đạt chuẩn, đến nay Liên Mạc đã có 17/19 tiêu chí đạt chuẩn gồm: quy hoạch, giao thông, thuỷ lợi, điện, bưu điện, nhà ở dân cư, hình thức tổ chức sản xuất, y tế, văn hoá, hệ thống tổ chức chính trị xã hội, an ninh trật tự, môi trường, giáo dục, trường học, thu nhập, tỷ lệ hộ nghèo, tỷ lệ lao động có việc làm; Còn 02 tiêu chí: chợ nông thôn và cơ sở vật chất văn hoá đang phấn đấu hoàn thành trong thời gian tới.
Và tuy vẫn còn nhiều khó khăn, vẫn còn nhiều việc tiếp tục làm trong thời gian tới nhưng có một điều mà ai cũng phải khẳng định là: Ở Liên Mạc bộ mặt nông thôn giàu đẹp đã được định hình và chất lượng cuộc sống của người dân đang từng bước được nâng cao. Sản xuất chuyển mạnh theo hướng hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, hình thành những cánh đồng mẫu lớn với các giống lúa mới, cây trồng, vật nuôi chất lượng cao được đưa vào sản xuất. Đặc biệt, có hơn 100 ha nhiều năm trước đây luôn nằm trong tình trạng chiêm khê mùa úng, nay đã sản xuất được 2 vụ. Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đạt hơn 13,6 triệu đồng, đến năm 2012 đã tăng lên 26 triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 10,06% năm 2010, phấn đấu đến hết năm 2012 giảm xuống 2,99%. Công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân được thực hiện tốt. Toàn xã có hơn 70% người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế. Các trục đường làng cho đến các trục đường giao thông nội đồng đều đã được bê tông hoá, rộng rãi, phong quang rất thuận lợi cho việc sản xuất và đi lại của người dân.
Công tác văn hoá đã đem lại hiệu quả thiết thực. Việc cưới được tổ chức trang trọng, vui tươi, lành mạnh, tiết kiệm, phù hợp với phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của địa phương; đối với việc tang được thực hiện theo nếp sống mới; trong đám tang chỉ tổ chức ăn uống cho con em trong gia đình. Công tác xây dựng làng văn hoá, gia đình văn hoá đạt ở mức cao: cả xã có 3 thôn đều được công nhận là làng văn hoá, có 85% số hộ đạt gia đình văn hoá. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" được nhân dân tích cực hưởng ứng. Việc tổ chức quản lý và chỉ đạo các lễ hội truyền thống phù hợp với thuần phong mỹ tục, kinh tế xã hội ở địa phương. Các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể được nhân dân trong xã không chỉ giữ gìn và phát huy mà còn luôn tạo cho nó một chỗ đứng vững chắc, bền lâu trong đời sống văn hoá nhân dân, là biểu tượng văn hoá của làng xã. Điển hình nhất là làn điệu dân ca Xa Mạc do nhân dân thôn Xa Mạc sáng tạo, lưu giữ, bảo tồn, phát triển và trở thành một làn điệu dân ca của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Làn điệu dân ca Xa Mạc đã góp phần làm phong phú thêm cho kho tàng văn hoá của đất nước.
      Công tác giáo dục - đào tạo cũng có nhiều khởi sắc mới. Phát huy truyền thống hiếu học của quê hương, nhiều năm trước đây, từ những mái trường thân yêu của Liên Mạc, có những học sinh trưởng thành là viện sỹ, là giáo sư, là tiến sỹ, thạc sỹ, là những người lao động ưu tú, những tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam,...Ngày nay, với khẩu hiệu "Xây dựng nông thôn mới, trường lớp mới, quyết tâm giành nhiều thành tích mới", thầy và trò các trường luôn tich cực đẩy mạnh công tác giảng dạy, học tập, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho quê hương, đất nước,...
       An ninh chính trị đựoc giữ vững, trật tự an toàn xã hội đựơc đảm bảo, xã đã xây dựng các cụm liên kết với các xã bạn, tạo ra thế trận liên hoàn trong công tác vận động quần chúng, xây dựng tổ tự quản trong nhân dân với nhiều hình thức và nội dung phong phú đã cho kết quả tích cực, trật tự an toàn được giữ vững. 

      Công tác quân sự từng bước được tăng cường. Xã luôn hoàn thành xuất sắc công tác gọi thanh niên đi nhập ngũ, làm tốt công tác huấn luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên, công tác hậu phương quân đội, thực hiện tốt các cuộc diễn tập phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn, diễn tập khu vực phòng thủ, đảm bảo an ninh chính trị, góp phần ổn định trật tự xã hội, tạo tiền đề quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội ở địa phương.
Về với Liên Mạc hôm nay, chúng ta cảm nhận đựơc nhiều điều, từ những con người nồng hậu mến khách, những danh thắng uy nghiêm; những cánh đồng lúa, hoa màu ngút ngàn với nhiều hương sắc. Liên Mạc đã trở thành điểm đến, nơi thăm qua học tập của các đơn vị trong và ngoài Thành phố về xây dựng nông thôn mới. Và đến nay đã có hàng chục đoàn với hàng nghìn lượt người về thăm quan, trao đổi kinh nghiệm. 




  Đ/c  Phạm Quang Nghị - UVBCT – Bí thư Thành ủy Hà Nội
 kết luận buổi làm việc với Ban Chỉ đạo xây dựng NTM huyện Mê Linh và xã Liên Mạc 

          Việc thực hiện chương trình xây dựng mô hình xã điểm Liên Mạc bước đầu đã có sức lan toả rộng khắp, đã huy động được nguồn lực lớn cả trong ngân sách và ngoài xã hội. Người dân thấy rõ thêm trách nhiệm của mình, hồ hởi, phấn khởi đóng góp xây dựng NTM. Phong trào bước đầu đáp ứng sự nghiệp CNH - HĐH nông nghiệp - nông thôn, gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá - xã hội. Động viên người dân chủ động sáng tạo văn hoá, không ngừng nâng cao mức hưởng thụ văn hoá, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh. Qua phong trào cũng khai thác sâu rộng dân chủ hoá, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần giảm dần sự phân tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.   

  Xây dựng NTM là một quá trình lâu dài, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Xây dựng NTM nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hoà thuận, dân chủ, có đời sống văn hoá phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và nâng cao đời sống nông dân. Thành công từ việc xây dựng mô hình NTM ở Liên Mạc đã và đang minh chứng điều đó./   


Huyện Mê Linh: đột phá từ khâu xây dựng quy hoạch


Xây dựng Nông thôn mới (NTM), huyện Mê Linh xác định quy hoạch (QH) phải đi trước một bước nên đã đặc biệt quan tâm và có nhiều cách làm sáng tạo. Ông Nguyễn Công Soái- Phó Bí thư Thường trực Thành ủy, Trưởng BCĐ Chương trình 02-Ctr/TU Hà Nội- khẳng định: "Những cách làm quy hoạch của Mê Linh là kinh nghiệm tốt cho nhiều địa phương khác học tập".

Quy hoạch đi trước một bước
Huyện Mê Linh nằm ở cửa ngõ phía Bắc của Thủ đô, có diện tích tự nhiên trên 14.000 ha, đất sản xuất nông nghiệp trên 8.000ha, dân số gần 20 vạn người. Mặc dù có nhiều lợi thế về địa lý, đất đai, nguồn nhân lực dồi dào, tuy nhiên, khi xây dựng NTM, huyện Mê Linh cũng gặp không ít khó khăn do xuất phát điểm thấp, nông nghiệp- nông thôn phát triển chưa bền vững, đời sống của một bộ phận dân cư còn khó khăn... Thời điểm năm 2010, cả huyện chỉ có một tiêu chí đạt là ANTT xã hội được giữ vững, 7/19 tiêu chí cơ bản đạt, còn lại tới 11/19 tiêu chí chưa đạt, đặc biệt là tỷ lệ hộ nghèo còn tới 8,64%. Tỷ lệ các xã có quy hoạch nông nghiệp- nông thôn thấp và chất lượng quy hoạch không cao...
Sản phẩm mây tre giang của Làng nghề mây tre đan Yên Trường, thôn Nam Cường, xã Tam Đồng, huyện Mê Linh.
Ông Đoàn Văn Trọng- Phó Chủ tịch UBND huyện Mê Linh- cho biết, khi bắt tay xây dựng NTM, UBND huyện xác định rõ rằng QH là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, cần phải đi trước một bước. Bởi đây là bước định hướng hết sức quan trọng cho việc phát triển nông nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân; làm tốt công tác QH sẽ tạo tiền đề thuận lợi cho việc lập và thực hiện Đề án xây dựng NTM ở các xã. Qua tìm hiểu kinh nghiệm từ các địa phương cho thấy, việc xây dựng Đề án trong khi chưa có QH dẫn đến phải bổ sung, sửa đổi rất nhiều, thậm chí phải làm đi làm lại. Rút kinh nghiệm từ thực tế đó, UBND huyện Mê Linh đã chủ động triển khai xây dựng QH một cách bài bản, khoa học. Trong khi hầu hết các địa phương trên địa bàn TP. Hà Nội, triển khai QH xây dựng NTM đều chậm so với tiến độ, quá trình triển khai gặp nhiều khó khăn, vướng mắc thì ở huyện Mê Linh, công tác QH lại được thực hiện sáng tạo và có kết quả cao, chất lượng các đồ án quy hoạch tốt.
Sáng tạo trong cách làm
Theo ông Đoàn Văn Trọng, thông thường ở các huyện khác, công tác QH NTM được giao cho các xã làm chủ đầu tư. Tuy nhiên, trình độ quản lý đầu tư ở cấp xã còn thấp và không đồng đều. Sau khi nắm bắt được thực tế đó, UBND huyện đã quyết định thành lập "BQL dự án QH xây dựng NTM", gộp từ 16 chủ đầu tư của 16 xã vào một đầu mối duy nhất. BQL thay mặt chủ đầu tư tổ chức thực hiện công tác lập QH; đàm phán, ký kết hợp đồng với các nhà thầu. Việc làm này nhằm phát huy khả năng chuyên môn của cán bộ làm công tác quản lý đô thị, có nhiều kinh nghiệm, có thể phối hợp với tư vấn đưa ra các ý tưởng QH phù hợp, hỗ trợ những hạn chế của cán bộ cấp xã. Hơn nữa, thay vì triển khai đồng loạt các QH chi tiết phải cần rất nhiều kinh phí, huyện Mê Linh đã chọn lựa, ưu tiên từng hạng mục đầu tư. "Nếu tất cả các QH đều xây dựng chi tiết theo tỷ lệ 1/500, vừa không cần thiết vừa rất tốn kém (mỗi xã cần khoảng 1,2 tỷ đồng), huyện Mê Linh đã lựa chọn chỉ các khu trung tâm như: công trình giáo dục, y tế, văn hóa… mới xây dựng tỷ lệ 1/500; còn QH tổng thể của xã xây dựng tỷ lệ 1/2000. Nhờ vậy, đã tiết kiệm được 1/3 kinh phí, mỗi xã chỉ hết từ 400- 500 triệu đồng cho công tác QH"- ông Trọng cho biết.
Trong quá trình lập QH, UBND huyện thực hiện công khai lấy ý kiến nhân dân, để người dân tham gia nên nhiều khó khăn, vướng mắc đã được giải quyết nhanh và hiệu quả. Trong số các QH thì vấn đề QH nghĩa trang nhân dân nhận được nhiều ý kiến chưa thống nhất bởi QH sẽ chỉ có một nghĩa trang tập trung ở mỗi xã; trong khi đó, theo tập quán, mỗi thôn đều muốn có một nghĩa trang riêng. Người dân không muốn mang người mất từ thôn này đến thôn khác để chôn cất… Lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân, việc lập QH đã chọn ra những điểm trung tâm giữa các thôn và có kết nối với hạ tầng giao thông thuận tiện. Từ đó, vấn đề tưởng chừng rất khó này đã được người dân đồng thuận cao…
Chỉ trong thời gian 4 tháng (từ tháng 4- 8/2011), 16/16 xã của huyện Mê Linh đã tổ chức lập xong QH. Tháng 3/2012, huyện Mê Linh công bố đồ án quy hoạch xây dựng NTM- đây là một trong những địa phương hoàn thành QH sớm nhất của TP. Hà Nội. Theo QH được duyệt, hệ thống giao thông toàn huyện, các QH về phát triển sản xuất, thoát nước... được xây dựng đồng bộ, khớp nối với các dự án hạ tầng hiện có. Hệ thống đường ngõ xóm ở tất cả các xã được cải tạo, lòng đường tối thiểu 3,5- 4m; đường trục thôn 4- 5m; đường trục khu tối thiểu 4- 5m, có vỉa hè mỗi bên tối thiểu 1- 2m và hệ thống thoát nước; đường trục xã tối thiểu 5- 7m, vỉa hè mỗi bên tối thiểu rộng 2- 4m. QH cũng xác định rõ định hướng tổ chức không gian vùng sản xuất, tổ chức mạng lưới điểm dân cư nông thôn, trụ sở đơn vị hành chính, trường học, các công trình công cộng, hệ thống các di tích văn hóa lịch sử, cảnh quan có giá trị...
Đặc biệt, QH này đã thể hiện rõ vùng sản xuất nông nghiệp tập trung hàng hóa quy mô lớn, có chất lượng và hiệu quả kinh tế cao với 700/1.000ha rau an toàn ở các xã ven sông Hồng, 450 ha trồng hoa ở vùng đất bãi sông Hồng, xây dựng vùng lúa chất lượng cao. QH cũng nhấn mạnh đến việc đưa cơ giới hóa vào quá trình sản xuất từ khâu làm đất, thu hoạch và chế biến; tăng cường chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật để đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; tổ chức tốt mối liên kết giữa nông dân, doanh nghiệp và nhà nước nhằm tạo bước đột phá trong phát triển sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn...
Ông Nguyễn Xuân Trường- Chủ tịch UBND huyện Mê Linh- cho biết, với đặc thù là một trong những huyện ven đô có tốc độ đô thị hóa nhanh, công tác xây dựng QH NTM các xã trên địa bàn phải được khớp nối với các dự án đô thị, dự án hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đã và đang triển khai. Nhìn chung, các đồ án QH của các xã đã có sự cập nhật hiện trạng một cách chi tiết nhất, ý tưởng QH có tính khả thi cao. Thành công ban đầu trong công tác QH là tiền đề quan trọng để Mê Linh triển khai xây dựng NTM một cách khoa học, hiệu quả.
Đánh giá cao cách làm sáng tạo của huyện Mê Linh, ông Nguyễn Công Soái- Phó Bí thư Thường trực Thành ủy, Trưởng BCĐ Chương trình 02-Ctr/TU Hà Nội- cho rằng: "Nếu để tự phát thì nông thôn sẽ phát triển manh mún, luộm thuộm. Khi có QH, người dân sẽ thấy được bức tranh tổng thể của xã, tạo niềm tin đối với người dân".
Tiếp đó, thực hiện chỉ đạo của thành phố, huyện Mê Linh đã tổ chức công bố công khai QH, đồng thời xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện theo QH như tổ chức cắm mốc giới các công trình hạ tầng xã hội và tuyến đường giao thông; ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất... Bên cạnh đó, huyện Mê Linh tập trung tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện dồn điền đổi thửa xây dựng cánh đồng mẫu lớn; thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo QH đã được duyệt.


Biểu dương các điển hình tiên tiến về gia đình hiếu học , dòng họ hiếu học, cộng đồng khuyến học huyện Mê Linh


Huyện Mê Linh vừa tổ chức hội nghị biểu dương các điển hình tiên tiến về gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học, cộng đồng khuyến học huyện Mê Linh lần thứ 3 - giai đoạn 2009-2012.


Báo cáo tại hội nghị cùng các tham luận đã nêu bật những kinh nghiệm tốt, những cách làm khuyến học hay của Mê Linh. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu nội dung cơ bản của báo cáo này để các cơ sở cùng tham khảo.

Huyện Mê Linh có diện tích tự nhiên 14.000km2, gồm  16 xã và 2 thị trấn với số dân trên 20 vạn người  và 49.876 hộ.
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, nhân dân Mê Linh tự hào là quê hương của Hai Bà Trưng, là huyện anh hùng. Nhân dân Mê Linh không những có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất mà còn có truyền thống hiếu học lâu đời. Trong các giai đoạn lịch sử trước đây, dưới các triều đại, ở Mê Linh luôn xuất hiện những gương tiêu biểu cho tinh thần vượt khó trong việc “Dùi mài kinh sử”, nhiều người đỗ đạt cao trong các khoa cử, trở thành nho sỹ, tiến sỹ và được các triều đại phong kiến trọng dụng.
Ngày nay việc học tập của nhân dân cũng như sự nghiệp giáo dục nói chung ngày càng được coi trọng và đề cao. Phát huy truyền thống hiếu học của cha ông, con em Mê Linh tiếp tục phấn đấu , khắc phục khó khăn, kiên trì học tập, tu dưỡng nhằm vươn lên tiếp cận với trí thức, khoa học và công nghệ hiện đại. Nhiều người con của Mê Linh đã trở thành những nhà khoa học, có học hàm, học vị cao như viện sỹ, giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ; nhiều người trở thành các tướng lĩnh trong quân đội. Nhiều người con của Mê Linh hiện đang giữ các trọng trách trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước , các cơ sở nghiên cứu khoa học các trường đại học lớn của quốc gia.
Theo thống kê chưa đầy đủ , hiện nay trên địa bàn huyện Mê Linh có 89 tiến sỹ, 246 người có trình độ thạc sỹ, 6174 người có trình độ đại học (chiếm 3%dân số ) .Những con số trên đây tuy chưa nhiều nhưng thật có ý nghĩa và khẳng định một điều : Con em Mê Linh đã và đang phát huy tốt truyền thống hiếu học của cha ông và đang vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao của trí tuệ, ngày càng xứng đáng với truyền thống của quê hương Hai Bà Trưng , của huyện anh hùng .
Đến nay, sau hơn 10 năm xây dựng và phát triển, Hội Khuyến học huyện Mê Linh đã có bước phát triển đột phá. Hội đã được tổ chức ở tất cả 18/18 xã, thị trấn trong huyện. Hội còn lan tỏa đến hầu hết các thôn, làng ,tổ dân phố, đến các cơ quan , doanh nghiệp , trường học, đơn  vị lực lượng vũ trang với tổng số hội viên trên 20 ngàn người chiếm 10,2% dân số trong huyện.
Trong 18 Hội khuyến học các xã, thị trấn có 236 chi hội cơ sở và 238/831 ban khuyến học dòng họ, 61/92 làng có chi Hội khuyến học
Đến nay, quĩ khuyến học toàn huyện có 4,391 tỷ đồng
Trong đó :    -   Quỹ của huyện hội : 330 triệu
- Quỹ của 18 hộ K/h xã, thị trấn : 464 triệu
-  Quỹ của 236 chi hội : 1,916 tỷ đồng
- Quỹ của 238 dòng họ : 1,681 tỷ 
Một số xã, thị trấn có số quỹ nhiều như Tráng Việt 86 triệu, Chi  Đông 90 triệu, Quang Minh 42 triệu, Thạch Đà  50 triệu, Kim Hoa 42 triệu. 
Thông qua quỹ khuyến học ,  Hội khuyến học  từ huyện tới các cơ sở đã tổ chức khen thưởng cho những tập thể, cá nhân có nhiều thành tích trong giảng dạy học tập ở các ngành học, cấp học. Tính từ năm 2009 đến nay  :
- Huyện hội đã thưởng cho 70 thầy giáo,  cô giáo đạt danh hiệu giáo viện dạy giỏi cấp thành phố, những thầy cô giáo có nhiều đóng góp trong việc đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi… Thưởng cho 556 học sinh học giỏi và có thành tích cao trong học tập với  số tiền 9,6 triệu đồng. Đồng thời Hội khuyến học  huyện thưởng cho 81 em đỗ vào các trường đại học với 16,2 triệu đồng. Đặc biệt Hội tổ chức  cho 30 giáo viên dạy giỏi; 97 học sinh   đạt giải thành phố năm 2010 – 2011 về thăm Lăng Bác, thăm Bảo tàng Hồ Chí Minh và Báo công với các danh nho, tiến sỹ, các bậc hiền tài đất Việt với hình thức tôn nghiêm, trang trọng  tại Văn Miếu Quốc Tử Giám, để lại ấn tượng tốt đẹp trong thầy và trò, được Hội khuyến học thành phố đánh giá cao.
- Hội khuyến học các xã, thị trấn , Ban khuyến học các dòng họ đã rất coi trọng và chú ý tổ chức các hình thức nhằm động viên, khích lệ giáo viên học sinh  thi đua dạy tốt, học tốt. Ba năm qua các xã, thị trấn , các tổ chức khuyến học cơ sở đã thưởng cho 1383 lượt giáo viên giỏi các cấp  với số tiền 399,7 triệu đồng; Thưởng cho 16.944 lượt học sinh  giỏi với số tiền 1,3 tỷ đồng; Thưởng cho học sinh nghèo vượt khó vươn lên học giỏi 914 lượt học sinh  với số tiền 86,3 triệu đồng; thưởng cho 2978 học sinh đỗ vào các trường cao đẳng, đại học, bảo vệ xong luận án thạc sỹ, tiến sỹ… với số tiền 532,2 triệu đồng. Các chi hội khuyến học cơ sở  cũng đã biểu dương  cho 80 dòng họ xuất sắc và 228 gia đình hiếu học tiêu biểu với số tiền 62 triệu đồng .
Đồng thời với các hoạt động như trên, với vai trò là lực lượng nòng cốt trong việc liên kết, phối hợp với các tổ chức xã hội , Hội khuyến học các xã, thị trấn đã chú ý đến việc xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng nhằm tạo điều kiện cho người lớn có cơ hội học tập thường xuyên . Đến nay toàn huyện đã hình thành 18 trung tâm học tập cộng  đồng và đã tổ chức được 88 lớp học với 6.500 học viên và 32 lớp học nghề  cho 1068 người . Nội dung học chủ yếu phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng , pháp luật của Nhà nước , phổ biến kinh nghiệm  và tiến bộ khoa học công nghệ để ứng dụng trong sản xuất kinh doanh. Hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng đã góp phần nâng cao  dân trí và xây dựng xã hội học tập ở cơ sở.
Phong trào khuyến học huyện Mê Linh trong những năm qua và đặc biệt trong 3 năm gần đây đã có bước phát triển đáng mừng và đang trở thành phong trào quần chúng , thấm nhuần và thể hiện sinh động tinh thần xã hội hóa giáo dục. Nhiều mô hình khơi dậy tinh thần hiếu học trong nhân dân như “Gia đình hiếu học” ; “ dòng họ hiếu học”, “ Cộng đồng khuyến học” đã hình thành và phát triển rộng rãi .
Tính từ 2009 đến nay, toàn huyện có 25.576 hộ đạt danh hiệu “Gia đình hiếu học”, đạt 51,2% so với tổng số hộ dân trên địa bàn ; 238/831 dòng họ đạt danh hiệu “Dòng họ hiếu học” chiếm 28,6%. 14/18 xã, thị trấn và 60/92 làng, tổ dân phố đạt danh hiệu “Cộng  đồng khuyến học”. Tuy số lượng và tỷ lệ các danh hiệu nói trên đạt được chưa cao, nhưng đây thực sự là những điển hình tiên tiến và những mô hình này đã góp phần tích cực và có hiệu quả làm giảm tình trạng lưu ban,bỏ học, góp phần chống các biểu hiện tiêu cực, tạo môi trường giáo dục lành mạnh trong các nhà trường .
Chúng ta trân trọng và đánh giá cao những cố gắng của Hội khuyến học các xã, thị trấn trong việc xây dựng những mô hình khuyến học, tạo ra những điển hình  về gia đình hiếu học ,dòng họ hiếu học và cộng đồng khuyến học làm hạt nhân thúc đẩy sự nghiệp khuyến học trên địa bàn .
- 14 xã, thị trấn và 60 làng , tổ dân phố đạt tiêu chuẩn cộng đồng khuyến học là thể hiện sự đồng thuận của nhân dân , sự lãnh đạo , chỉ đạo của các cấp ủy , chính quyền  có tác động trực tiếp cho việc phát triển các tổ chức khuyến học trên địa bàn từng xã. Với những cố gắng và các biện pháp cụ thể, nhiều xã trong huyện đã chỉ đạo đạt 100% số làng có chi Hội khuyến học và hoạt động có hiệu quả như các xã Thanh Lâm, Thạch Đà, Tráng  Việt, Kim Hoa, Tiến Thắng… từ chi Hội khuyến học làng, tổ dân phố đã có tác động trực tiếp  thúc đẩy và hình thành các ban khuyến học dòng họ, hình thành các gia đình hiếu học.
Xã Thạch đà là một trong những cộng đồng khuyến học tiêu biểu. Toàn xã có 4 thôn thì cả 4 thôn đều có chi Hội khuyến học. Hội khuyến học xã được thành lập từ năm 2001 và là một trong những hội hoạt động mạnh. Tuy có thời gian tình hình chính trị trong xã không ổn định nhưng  Hội khuyến học xã vẫn tồn tại và duy trì hoạt động . Đồng chí chủ tịch Hội là đồng chí phó chủ tịch UBND xã với tác phong dám nghĩ, dám làm, tích cực chủ động, lăn lộn với phong trào để phát triển Hội. Cả xã đã có 18/20 dòng họ có Ban khuyến học. Quỹ khuyến học của xã duy trì thường xuyên trên dưới 100 triệu đồng và hàng năm Hội xã tổ chức thưởng cho hàng trăm giáo viên, học sinh có thành tích cao trong giảng dạy, học tập. Với kết quả hoạt động , Hội khuyến học xã Thạch đà đã được các cấp , các ngành và trung ương Hội khuyến học Việt Nam tặng bằng khen.
Trong số các cộng đồng khuyến học trên địa bàn huyện, xã Thanh Lâm cũng là một điển hình tiêu biểu. Là một xã có truyền thống cách mạng, là nơi hoạt động của các đồng chí lãnh tụ tiền bối. Nhân dân Thanh  Lâm có truyền thống hiếu học. Hội khuyến học của xã được thành lập sớm và hoạt động có nề nếp. 7/7 thôn trong xã đều có chi Hội khuyến học. Hàng năm Hội khuyến học từ xã đến các thôn đều có những hình thức hoạt động phong phú, tổ chức phát thưởng cho giáo viên, học sinh một cách trang trọng .
Thị trấn Chi Đông là  điển hình tốt về công tác khuyến học . Đặc biệt đây là 2 đơn vị dẫn đầu toàn huyện về mức thưởng cho học sinh hàng năm: 500.000đ cho học sinh đỗ đại học, 1,5 triệu đồng cho thạc sỹ và 3 triệu đồng cho tiến sỹ . Cùng với các hình thức khác,mức thưởng nói trên có tác dụng lớn trong việc khuyến khích con em thị trấn vươn lên trong học tập.
Các thôn Bạch Trữ, Kim Giao ( xã Tiến Thắng ) ;Yên Nhân, Do Hạ  (xã Tiền Phong); Thọ Lão ( xã Tiến Thịnh ); Lai thượng ( xã Kim Hoa ), tổ dân phố số 3 , số 7 ( thị trấn Chi Đông) … đều là những điển hình tốt về cộng đồng khuyến học. Từ hoạt động khuyến học ở các thôn, làng đã có tác động đến nhận thức của nhân dân  về khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập và hình thành, phát triển những nhân tố mới về gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học .
- Phong trào khuyến học dòng họ trên địa bàn huyện có bước phát triển mạnh trong những năm gần đây. Mô hình dòng họ khuyến học đang phát huy hiệu quả tốt vì quy mô vừa phải,việc thành lập bộ máy khuyến học nhanh và thuận lợi khi có sự đồng tình của cả dòng họ, việc huy động  quỹ khuyến học dòng họ rất có hiệu quả. Dòng họ Đỗ Đăng thôn Bạch Trữ chỉ trong buổi ra mắt Ban khuyến học dòng họ đã nhận được sự ủng hộ trong nội bộ được 22 triệu đồng. Họ Đỗ Đình ( thôn Bạch Trữ ) thống nhất mỗi hộ ủng hộ 100 nghìn cho quỹ khuyến học.  Nhiều dòng họ trong huyện được tổ chức tự phát từ năm 1994, còn lại hầu hết các dòng họ thành lập Ban khuyến học từ 2005 trở lại đây. Hoạt động khuyến học dòng họ đã có tác dụng tốt trong việc xây dựng và phát triển các gia đình hiếu học. Tại hội nghị này, chúng ta trân trọng và đánh giá cao kết quả hoạt động khuyến học của 238 dòng họ tiêu biểu. Với những hoạt động phong phú, đa dạng, khuyến học của 238 dòng họ đều đem đến một kết quả chung là : Trong mỗi dòng họ đều có nhiều gia đình hiếu học; không có con em mắc tệ nạn xã hội , góp phần làm hạn chế tình trạng học sinh bỏ học, lưu ban; khích lệ được con em vươn lên trong học tập, rèn luyện. Hội nghị chúng ta hoan nghênh và biểu dương dòng họ Đỗ ( thị trấn Quang Minh ), dòng họ Lỗ ( Tự Lập ) , họ Nguyễn Huy ( Tam Đồng) , họ Bùi Đình, họ Lương ( Tráng Việt ) , họ Nguyễn ( Chi Đông) ,họ Nguyễn , họ Trần ( Vạn Yên), họ Nguyễn Thanh ( Mê Linh ), họ Phạm ( Bồng Mạc), họ Hồ (Tiến Thịnh ), họ Nguyễn ( Chu Phan), Họ Đinh ( Văn Khê), họ Lê ( Tiến Thắng) họ Phùng Đình, Phùng Viết, Nguyễn Hữu ( Thạch Đà), họ Đào Duy (Tiền Phong)v.v… Đặc biệt chúng ta hoan nghênh và đánh giá cao nghĩa cử cao đẹp của dòng họ Bùi Đình ở thôn Đẹp xã Tráng Việt đã hỗ trợ tiền nuôi 2 cháu có hoàn cảnh  khó khăn đặc biệt trong suốt những năm học đại học. Chi hội Chùa Trung Hậu đã tổ chức dạy tiếng Anh miễn phí cho con em xã Tiền Phong và hỗ trợ 4 học sinh nghèo vượt khó vươn lên học giỏi hàng chục triệu đồng .
Trong các cộng đồng khuyến học và dòng họ hiếu học tiêu biểu thì hạt nhân chính là các gia đình hiếu học. 3 năm qua, toàn huyện đã có 25.576 hộ đạt danh hiệu gia đình hiếu học, trongđó có 228 gia đình đạt danh hiệu gia đình hiếu học xuất sắc. Mỗi gia đình  hiếu học có hoàn cảnh và điều kiện khác nhau nhưng điều đáng quý chung của tất cả các gia đình là ông, bà, cha mẹ đều chăm lo, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho con em học tập, chăm lo việc quản lý giáo dục con em chăm ngoan, có nhiều hình thức, biện pháp khuyến khích, động viên để con em phấn đấu vươn lên đạt thành tích cao trong học tập.
Một biểu hiện rất đáng trân trọng là phần lớn các gia đình hiếu học đều là những hộ nghèo, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nhưng họ đều dồn tình thương yêu cho con, chắt chiu, tần tảo, tiết kiệm để dồn tiền nuôi con ăn học. Gia đình ông Lê Văn Quất – tổ dân phố số 6 thị trấn Quang Minh thuộc diện hộ nghèo, thu nhập chính chỉ nhờ vào mấy sào ruộng nhưng đã quyết tâm cho các con đi học và 3/3 con của gia đình đều đỗ đại học hệ chính quy.
       Gia đình ông Nguyễn Ngọc Quang ở thôn Phú Mỹ, xã Tự Lập. Ông bà là thương binh hạng 3/4 nhà làm ruộng, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nhưng ông đã tập trung đầu tư, động viên con em học tập, 5 con của ông bà đều chăm ngoan và đều thi đỗ đại học .
 Vất vả, khó khăn như gia đình bà Nguyễn Thị Tam ở thôn Kim Giao, xã Tiến Thắng, chồng mất sớm, bà tần tảo nuôi 5 con ăn học. Thương mẹ, các con của bà đều chăm ngoan và cả 5 cháu đều thi đỗ đại học .
Ông Nguyễn Ngọc Quy ở xã Tự Lập, ông Lê Xuân Tiến  ở thôn Tráng Việt xã Tráng Việt cũng là thương binh hạng 2/4 , ông bà có 6 con và hoàn cảnh kinh tế khó khăn nhưng do quyết tâm đầu tư, tập trung nuôi dạy con ăn học, đếnnay 4 con của ông đã đỗ đại học và 2 con đang học phổ thông.
      ở thôn Văn Lôi, xã Tam Đồng gia đình anh Nguyễn Văn Thật cũng rất đáng biểu dương, anh chị có 5 con thì 3 cháu đỗ đại học, cháu gái đầu học đại học Luật, được kết nạp Đảng trong trường đại học và thi tốt nghiệp đỗ thủ khoa Khoa hình sự. Cháu gái thứ 2 đang học năm thứ 3 trường đại học Luật; cháu gái thứ 3 đang học năm thứ 2 trường đại học Kiến trúc. Anh chị phải làm 3 mẫu ruộng, nuôi bò, nuôi lợn nái, nhặt phế liệu để giành dụm tiền nuôi con ăn học .
Do nhận thức đầy đủ về việc học tập của con em và mong muốn con em thành người , mặc dù điều kiện kinh tế khó khăn nhưng nhiều gia đình đã kiên trì, vượt khó, đầu tư nên kết quả 100% số con của gia đình đều đỗ đại học. Gia đình bà Hà thị Tấc ( Vạn Yên) có 3/3 con là thạc sỹ; gia đình ông Nguyễn Văn Tiếp ( Thanh Vân, Thanh Lâm ) có 3/3 con đỗ đại học trong đó có 1 thạc sỹ ; Gia đình  ông Phùng Viết Thi, ông Phùng Đình Thanh ( xóm 8- Thạch Đà) và gia đình ông Nguyễn Văn Huyên ( Do Hạ, Tiền Phong) đều có 3/3 con đỗ đại học v.v
Có thể nói danh sách 228 hộ gia đình hiếu học tiêu biểu thực sự là bức tranh đẹp, nhiều màu sắc mà ở hội nghị này chúng ta không thể kể hết những khó khăn và sự cố gắng của  mỗi gia đình  trong việc nuôi con ăn học. Với sự nỗ lực của mỗi gia đình cùng với sự dạy dỗ của các thầy cô giáo, sự chăm lo của xã hội , các con cháu của các gia đình hiếu học thực sự là những người thành đạt, là những công dân tốt đã và sẽ trở thành những người có ích cho xã hội . 
Những kết quả của công tác khuyến học của huyện Mê Linh  trong những năm qua là rất đáng khích lệ. Kết quả  của công tác khuyến học đã góp phần cùng với ngành Giáo dục nâng cao chất lượng giáo dục trong các nhà trường. Trở lại với Hà Nội , những năm qua Giáo dục Mê Linh đã nhanh chóng  hòa nhập với giáo dục Thủ đô; chất lượng giáo dục toàn diện có nhiều chuyển   biến - đặc  biệt là chất lượng mũi nhọn. Hàng năm giáo dục Mê Linh luôn đứng  ở tốp đầu  về chất lượng học sinh giỏi trong 29 quận , huyện của thành phố .
Bên cạnh những kết quả đã đạt được , công tác khuyến học Mê Linh còn một số tồn tại : 
- Phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập cũng như việc xây dựng gia đình hiếu học, dòng họ hiếu học ở một số xã còn lẻ tẻ, còn mang tính tự  phát, chưa thực sự trở thành phong trào sâu, rộng thu hút đông đảo nhân dân tham gia .
- Nhận thức về công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập ở một số cơ sở chưa đầy đủ. Hoạt động khuyến học còn có sự chênh lệch, chưa đồng đều giữa các xã .
- Công tác tuyên truyền chưa thường xuyên , chưa sâu rộng . Việc chỉ đạo nhân rộng điển hình tiên tiến về khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập ở một số xã chưa được quan tâm đúng mức, tác dụng lan tỏa của các điển hình chưa mạnh.
Từ kết quả của công tác khuyến học những năm qua, chúng ta có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm : 
- Một là : Phải có sự quan tâm lãnh đạo , chỉ đạo của cấp ủy Đảng , chính quyền , đặc biệt là vai trò của người đứng đầu có tính chất quyết định  đến chất lượng và hiệu của của công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập .
- Hai là : Xây dựng Hội khuyến học từ huyện đến cơ sở để đảm nhận vai trò nòng cốt, cần có đội ngũ cán bộ đặc biệt là cán bộ chuyên trách nhiệt tình, tâm huyết, có uy tín, có hiểu biết về giáo dục, biết phối hợp chặt chẽ với MTTQ và các tổ chức chính trị- xã hội , biết chủ động tham mưu đề xuất nội dung, biện pháp với cấp ủy, chính quyền … thì phong trào mới phát triển mạnh và toàn diện.
- Ba là : Công tác tuyên truyền ,nâng cao nhận thức về KH,KT, xây dựng xã hội học tập cần thường xuyên  bền bỉ. Coi trọng công tác thi đua, có hình thức khen thưởng kịp thời. Đồng thời thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn rút kinh nghiệm trong quá trình chỉ đạo ; chú trọng nhân rộng điển hình tiên tiến để công tác khuyến học có hiệu quả bền vững .
Phát huy những kết quả đã đạt được , khắc phục những tồn tại nhược điểm, trong những năm tới khuyến học Mê Linh tiếp tục thực hiện chỉ thị 11 của Bộ Chính trị và chương trình 26 của Thành ủy: Tập trung mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập; củng cố xây dựng Hội khuyến học từ huyện đến cơ sở làm nòng cốt trong việc kiên kết, phối hợp với các tổ chức , các lực lượng xã hội tham gia hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Phấn đấu đến năm 2017 đạt 90% gia đình hiếu học,; 80 %DHHH; 70% thôn, cụm dân cư, tổ dân phố có phong trào CĐKH; 70% số hộ gia đình có hội viên tham gia Hội khuyến học
Thực hiện phương hướng trên đây, Hội khuyến học Mê Linh tiếp tục sát cánh cùng với  ngành Giáo dục đào tạo, phối hợp chặt chẽ với MTTQ và các cấp, các ngành, tranh thủ sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền , quyết tâm thực hiện nhiệm vụ ,góp phần tích cực để chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng xã hội học tập ngày càng đi vào cuộc sống .

Trường tiểu học Văn Khê A tổ chức Lễ khai giảng năm học mới và đón bằng công nhận trường đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn 1


Sáng ngày 04/9/2013, Trường Tiểu học Văn Khê A long trọng tổ chức Lễ khai giảng năm học mới 2013 – 2014 và Lễ đón bằng công nhận trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 1. 

Về dự buổi lễ có đại diện Sở Giáo dục – Đào tạo thành phố; về phía huyện Mê Linh có đồng chí Nguyễn Xuân Trường – Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện; lãnh đạo xã Văn Khê, Hiệu trưởng các trường tiểu học, các đồng chí nguyên là cán bộ quản lý, giáo viên của trường qua các thời kỳ cùng toàn thể cán bộ, giáo viên, học sinh và đại diện cha mẹ học sinh của nhà trường.


  
Đ/c Nguyễn Xuân Trường – Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện
đánh trống khai giảng năm học mới 2013 – 2014 tại trường Tiểu học Văn Khê A
 

Năm học 2012 – 2013, Trường Tiểu học Văn Khê A đã đạt được nhiều thành tích nổi bật trong công tác dạy và học. Trường có 5 giáo viên giỏi cấp huyện, 4 giáo viên được công nhận chiến sỹ thi đua, 5 giáo viên được Chủ tịch UBND huyện tặng giấy khen; 26 học sinh giỏi cấp huyện, 5 học sinh giỏi cấp thành phố; tỷ lệ học sinh xếp loại văn hoá khá, giỏi đạt 75.8%; 100% học sinh xếp loại hạnh kiểm đầy đủ. Hiện nay, 100% giáo viên của nhà trường có tình độ đạt chuẩn, trong đó 91.3% đạt trên chuẩn. Trường được Chủ tịch UBND huyện tặng Giấy khen tập thể lao động tiên tiến.
Được sự quan tâm đầu tư của Sở Giáo dục – Đào tạo thành phố, của huyện Mê Linh, trường Tiểu học Văn Khê A đã được xây dựng cơ sở vật chất kiên cố, khang trang với đầy đủ các phòng học văn hoá, phòng học bộ môn, phòng thí nghiệm - thực hành, phòng làm việc, sân chơi và các công trình phụ trợ khác đảm bảo tốt cho các hoạt động dạy và học của nhà trường.

 Đ/c Nguyễn Xuân Trường – Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện
phát biểu tại Lễ khai giảng năm học mới 2013 - 2014
 
Tại buổi lễ, thay mặt lãnh đạo huyện, đồng chí Nguyễn Xuân Trường – Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện đã tặng hoa chúc mừng và biểu dương những thành tích thầy và trò trường Tiểu học Văn Khê A đã đạt được trong thời gian qua. Đồng chí Chủ tịch UBND huyện nhấn mạnh: Năm học 2013 – 2014 là năm học đầu tiên thầy và trò trường Tiểu học Văn Khê A được học tập và làm việc trong môi trường mới với danh hiệu trường Chuẩn Quốc gia. Để phát triển và giữ vững danh hiệu này, đồng chí Chủ tịch UBND huyện đề nghị Ban giám hiệu, Hội đồng sư phạm, các thầy cô giáo, cán bộ nhân viên và học sinh nhà trường phải luôn có ý thức giữ gìn, bảo quản cơ sở vật chất; Ban giám hiệu nhà trường phải xây dựng Kế hoạch hoạt động dạy học năm học 2013 – 2014 với những chỉ tiêu cụ thể; tiếp tục chấn chỉnh nề nếp, kỷ cương trong các hoạt động giáo dục, quản lý giáo dục; thực hiện có hiệu quả việc đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, phương thức thi, kiểm tra, đánh giá nhằm tạo sự chuyển biến tích cực, rõ nét về chất lượng giáo dục toàn diện, tạo bước đột phá mới về chất lượng học sinh giỏi; quan tâm chăm sóc khung cảnh sư phạm , tăng cường công tác tuyên truyền, vận động toàn dân tham gia chăm sóc thế hệ trẻ. Các thầy cô giáo phải nỗ lực phấn đấu đạt chuẩn toàn diện, không ngừng nâng cao trình độ nhận thức chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tích cực đổi mới phương pháp để giảng dạy tốt.
Tại buổi lễ, được sự uỷ quyền của Chủ tịch UBND thành phố, đồng chí Nguyễn Xuân Trường – Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện đã trao Bằng công nhận trường chuẩn Quốc gia giai đoạn 1 cho trường Tiểu học Văn Khê A. 

Một số hình ảnh tại buổi Lễ khai giảng và đón bằng công nhận trường đạt Chuẩn Quốc gia mức độ 1 tại trường Tiểu học Văn Khê A: 
  Các vị đại biểu tham quan cơ sở vật chất trường Tiểu học Văn Khê A
Lễ khai giảng rực rỡ cờ hoa 
  Những gương mặt hân hoan đón chào năm học mới 

   Văn nghệ chào mừng năm học mới của học sinh nhà trường 


Các đồng chí lãnh đạo huyện ủy HĐND - UBND - Ủy ban MTTQ dự lễ khai giảng tại các trường trong huyện


Sáng ngày 5/9/2013, hoà chung không khí hân hoan đón chào năm học mới và ngày “Toàn dân đưa trẻ tới trường”, thầy và trò các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông trên địa bàn huỵên tưng bừng tổ chức Lễ khai giảng năm học mới 2013 – 2014. Các đồng chí lãnh đạo Huyện uỷ - HĐND – UBND - Uỷ ban MTTQ huyện đã về dự khai giảng tại một số trường trên địa bàn huyện.

* Sáng ngày 5/9, trường THPT Tự Lập tưng bừng tổ chức Lễ khai giảng năm học mới 2013 – 2014. Đồng chí Lưu Tiến Long – Thành uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ đã về dự.
Phát biểu tại Lễ khai giảng, đồng chí Lưu Tiến Long – Thành uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ đã ghi nhận và biểu dương những thành tích thầy và trò trường THPT Tự Lập đã đạt được trong năm học vừa qua. Chất lượng giáo dục đại trà của trường tiếp tục ổn định, tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp cao, chất lượng giáo dục mũi nhọn có sự tiến bộ, số lượng học sinh đỗ Đại học, Cao đẳng ngày càng tăng. Nhà trường đã có nhiều tập thể, cá nhân đạt danh hiệu lao động tiên tiến, giáo viên dạy giỏi, chiến sĩ thi đua cấp cơ sở.
  Đ/c Lưu Tiến Long – Thành uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ đánh trống khai giảng
năm học 2013 – 2014 tại trường THPT Tự Lập
 
Để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục – đào tạo năm học 2013 – 2014, đồng chí Bí thư Huyện uỷ đề nghị tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh trường THPT Tự Lập tiếp tục thực hiện có hiệu quả các cuộc vận động, các phong trào do Bộ Giáo dục – đào tạo phát động; chú trọng đổi mới phương pháp giảng dạy, kiểm tra, đánh giá giáo viên và học sinh để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; tập trung nâng cao hơn nữa chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục. Bên cạnh đó nhà trường cần tiếp tục đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Chi bộ Đảng nhà trường, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho thế hệ trẻ. Đối với các em học sinh, đồng chí Bí thư Huyện uỷ mong muốn các em phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, xác định rõ mục đích học tập để có thái độ học tập nghiêm túc, lập nhiều thành tích trong học tập.
* Cũng trong buổi sáng ngày 5/9, đồng chí Đỗ Minh Tuấn – Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ, Chủ tịch HĐND huyện dự Lễ khai giảng với thầy và trò trường THCS Chi Đông.
Tại đây, đồng chí Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ, Chủ tịch HĐND huyện bày tỏ sự vui mừng trước những thành tích trường THCS Chi Đông đã đạt được trong năm học qua. Tuy còn những khó khăn về cơ sở vật chất song năm học vừa qua, thầy và trò trường THCS Chi Đông đã nỗ lực cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học. Tỷ lệ học sinh khá, giỏi của trường chiếm trên 70%; tỷ lệ học sinh đỗ THPT đạt 92.5%. Nhà trường có 1 học sinh giỏi cấp thành phố, 8 học sinh giỏi cấp huyện, 2 giáo viên dạy giỏi cấp huyện, 2 chiến sỹ thi đua cấp cơ sở.
Đồng chí Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ, Chủ tịch HĐND huyện yêu cầu tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh trường THCS Chi Đông trên cơ sở những kết quả đã đạt được, tiếp tục phát huy giành nhiều thành tích cao hơn nữa trong năm học 2013 – 2014. Đồng chí Phó Bí thư Thường trực Huyện uỷ nhấn mạnh: các thầy cô giáo, các em học sinh nhà trường cần nhận thức, quán triệt và thực hiện thật tốt những yêu cầu trong thư của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang gửi ngành giáo dục – đào tạo nhân dịp năm học mới. Bên cạnh đó, nhà trường cần đầu tư hơn nữa cho công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; mỗi thầy cô giáo phải là một tấm gương tự học và sáng tạo, không ngừng rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất chính trị, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục,…vv
* Cùng ngày, đồng chí Nguyễn Xuân Trường – Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện dự Lễ khai giảng với thầy và trò trường Tiểu học Hoàng Kim.
Năm học 2012 – 2013, trường Tiểu học Hoàng Kim là một trong những đơn vị tiêu biểu của ngành giáo dục huyện Mê Linh. Khắc phục những khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, thầy và trò nhà trường đã không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học. Tỷ lệ học sinh khá, giỏi của trường đạt 82%; 100% học sinh xếp loại hạnh kiểm thực hiện đầu đủ. Nhà trường có 9 học sinh giỏi cấp huyện, 4 học sinh giỏi cấp thành phố (trong đó có 2 giải Nhất, 1 giải Nhì, 1 giải Ba); 1 giáo viên đạt chiến sỹ thi đua cơ sở, 3 giáo viên được Chủ tịch UBND Huyện tặng Giấy khen. Nhà trường được UBND huyện tặng Giấy khen tập thể lao động tiên tiến.
Phát biểu tại Lễ khai giảng, đồng chí Nguyễn Xuân Trường – Phó Bí thư Huyên ủy, Chủ tịch UBND huyện yêu cầu Ban giám hiệu, Hội đồng sư phạm trường Tiểu học Hoàng Kim phải xây dựng được khối đoàn kết, nhất trí cao; thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp dạy học để tạo sự chuyển biến tích cực về chất lượng giáo dục tòan diện, tạo bước đột phá mới về chất lượng học sinh giỏi; cùng với đổi mới công tác quản lý, nâng cao chất lượng giáo dục, trong năm học mới 2013 – 2014 cần đưa nội dung giáo dục về Chương trình xây dựng nông thôn mới vào các buổi học ngoại khoá; giáo dục nhân cách, kỹ năng sống cho học sinh; từng thầy cô giáo cần xây dựng cho mình kế hoạch thực hiện thật cụ thể, khoa học để vừa giảng dạy, bồi dưỡng học sinh, vừa tham gia tự học, từ bồi dưỡng để không ngừng nâng cao trình độ chính trị và chuyên môn nghiệp vụ. Đồng chí Chủ tịch UBND huyện căn dặn các em học sinh của nhà trường cần chăm chỉ, ngoan ngoãn, siêng năng học tập để phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ.
* Cũng trong buổi sáng ngày 5/9, đồng chí Hà Huy Quang – Uỷ viên Ban Thờng vụ Huyện uỷ, Phó Chủ tịch UBND huyện thăm và dự Lễ khai giảng tại Trường Mầm non Kim Hoa;
Đồng chí Đoàn Văn Trọng - Uỷ viên BTV Huyện uỷ, Phó Chủ tịch UBND huyện thăm và dự Lễ khai giảng tại trường THCS Đại Thịnh A;
Đồng chí Nguyễn Văn Hương - Uỷ viên BTV, Trưởng Ban tổ chức Huyện uỷ thăm và dự Lễ tại Trường Mầm non Liên Mạc;
Đồng chí Lưu Văn Chi - Uỷ viên BTV, Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Huyện uỷ dự và chung vui với trường Tiểu học Văn Khê B;
Đồng chí Nguyễn Văn Ba - Uỷ viên BTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện uỷ dự Lễ cùng thầy và trò Trường Mầm non Tiến Thắng;
Đồng chí  Trần Văn Lập - Uỷ viên BTV, Trưởng Ban Dân vận Huyện uỷ dự Lễ khai giảng cùng trường Tiểu học Vạn Yên;
Đồng chí Trần Ngọc Thanh - Uỷ viên BTV, Trưởng Công an huyện dự Lễ khai giảng cùng thầy và trò Trường Mầm non Tiền Phong;
Đồng chí Trần Văn Lâm - Uỷ viên BTV, Chỉ huy trưởng BCHQS huyện dự Lễ khai giảng tại Trường Tiểu học Chu Phan B;
Đồng chí Hoàng Anh Tuấn - Huyện uỷ viên, Phó Chủ tịch UBND huyện dự Lễ khai giảng tại trường THCS Tiền Phong;
Đồng chí Đỗ Khoá Bảng - Huyện uỷ viên, Chủ tịch Uỷ ban MTTQ huyện dự Lễ khai giảng tại trường THCS Tiến Thịnh.
Các đồng chí lãnh đạo Huyện uỷ - HĐND – UBND – UBMTTQ huyện đã tặng thầy và trò các nhà trường những lẵng hoa tươi thắm, chúc các nhà trường nói riêng và ngành giáo dục huyện nói chung trong năm học mới 2013 – 2014 tiếp tục gặt hái được nhiều thành công mới, thắng lợi mới. 


Mê Linh: truyền thống hiếu học

Mê Linh chẳng những có truyền thống yêu nước, bất khuất từ thời Hai Bà Trưng “phất cờ khởi nghĩa đánh quân nhà Hán”. Nhân dân Mê Linh còn có truyền thống khuyến học, hiếu học trọng người hiền tài.

Người Mê Linh xưa rất coi trọng việc học hành, thi cử, yêu quý những gia đình có “nền nếp thi thư”. Tổ tiên ta ở các xã như Quang Minh, Văn Khê, Phúc Thắng, Thanh Lâm, Tiến Thịnh, Liên Mạc, Kim Hoa, Chi Đông, Chu Phan rất chú ý đến việc khuyến học. Các làng cổ ở Mê Linh có quỹ đất riêng làm học điền, như xã Chi Long, huyện Kim Hoa nay là thị trấn Chi Đông có 15 mẫu học điền. Dân lấy hoa lợi cung đốn tiền gạo, sách đèn, giấy bút cho người đi học. Châu Khê ngoại, huyện An Lãng nay là thôn Khê Ngoại xã Văn Khê có 8 mẫu học điền, xã Lâm Hộ huyện Kim Hoa nay là thôn Lâm Hộ xã Thanh Lâm có 10 mẫu học điền. Đặc biệt xã An Lão và Châu Trần huyện An Lạc Phủ Tam Đái nay là thôn Yên Thị có đến 20 mẫu học điền. Người đi học, người có chí “dùi mài kinh sử”, người đỗ đạt thành danh được dân địa phương “ bảo kết hương thể”, nghĩa là xác minh lý lịch cho họ, miễn mọi sưu dịch họ không phải đi lính, đi phu, tạp dịch, tuần phiên. Dân làng, dòng họ kính trọng, tin tưởng chả thế mới có câu “một người làm quan, cả họ, cả làng được nhờ”.

Ảnh: Nguyễn Diệu Hằng(Tân thủ khoa đại học Ngoại Thương Hà Nội- xã Quang Minh)
Nhờ ở đây là nhờ cậy uy tín, sự hiểu biết pháp luật để khỏi bị kẻ khác chèn ép bắt nạt. Nhờ ở đây là nhờ cậy, kiến thức uyên bác về nho, y, lý, số để biết cách sống, cách ứng xử,…Đến bây giờ người ta vẫn truyền tụng rằng ở Yên Lão thị, Yên Lão Giáp còn có Văn Miếu, Văn Chỉ lập bia khắc tên các vị danh nho, khoa bảng ở làng mình và lấy nó làm niềm tự hào. Từ xa xưa người Mê Linh đã có tinh thần hiếu học. Nói về khoa bảng, Mê Linh có 13 tiến sỹ, trong đó có 5 người đỗ Hoàng Giáp, 8 người đỗ đệ tam giáp đồng tiến sỹ. Danh vọng nhất là ông Đỗ Nhuận. Ông làm tới chức Trung Trinh đại phu, người ở thôn Bạch Đa xã Kim Hoa. Một người giữ chức thư viện Hàn Lâm xếp thứ 15 trong nhị thập bát tú của thi sĩ Tao Đàn. Ở Yên Lão thị có một người đỗ tiến sĩ năm 1490, làm tới chức tế tửu có nghĩa là hiệu trưởng trường Quốc Tử Giám.
Ngày nay truyền thống khuyến học, hiếu học của người Mê Linh vẫn được phát huy và góp phần xứng đáng trong việc “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhân dân Mê Linh ngày nay đều ý thức được rằng: Biển học vô bờ, rộng xa lắm lắm, chỉ có con đường cho con cái được học hành đỗ đạt, thành danh mới có thể lập thân, lập nghiệp làm giàu bền vững được.
Công tác khuyến học, khuyến tài xây dựng xã hội học tập được cả xã hội quan tâm. 18 xã, thị trấn đều có hội khuyến học, hàng năm chi hội khuyến học làng, xã và các dòng họ được thành lập để trông nom khuyến khích việc học tập của con cháu mình. Thu hút, phát triển hơn 14.000 hội viên khuyến học bằng 8% dân số trong huyện, có hàng nghìn gia đình hiếu học. Ông Đinh Văn Cảo thôn Khê Ngoại xã Văn Khê “gà trống nuôi con” mà đã nuôi cả 5 đứa con tốt nghiệp đại học, có công ăn, việc làm ổn định. Gia đình bác Mười My ở thôn Văn Lôi xã Tam Đồng suốt ngày lam lũ đi buôn cua, buôn ốc, chạy chợ để nuôi 3 đứa con ăn học trở thành 3 kiến trúc sư. Có nhiều học sinh ở Mê Linh vừa là sinh viên, vừa phải làm thêm đủ nghề “rửa xe, rửa bát, làm gia sư…” để có thêm tiền ăn học. Chu Quang Đức con của cựu chiến binh Chu Quang Chiến xã Đại Thịnh, bị nhiễm chất độc màu da cam, trọng lượng cơ thể của em chỉ có 20kg mà em đã vượt lên số phận để học giỏi, đỗ vào trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 – khoa Tin học. Hiện nay Đức là giáo viên dạy tin trường THPT Mê Linh. Tôi được biết ở Mê Linh có nhiều gia đình phải bán ruộng, vườn, thế chấp tài sản để có tiền nuôi con ăn học.
Nhờ có truyền thống khuyến học, trọng người hiền tài, nhờ có tinh thần hiếu học góp phần làm cho “đất nước, xã hội, con người Mê Linh” ngày càng đổi mới.
Truyền thống hiếu học đã góp phần chấn hưng sự nghiệp giáo dục. Quy mô giáo dục tiếp tục phát triển ở các ngành học, cấp học. Đến nay, toàn huyện đã có 75 trường học từ Mầm non - Tiểu học – THCS, có 6 trường THPT đã đáp ứng được việc học của con em nhân dân trong huyện. Huyện Mê Linh đã hoàn thành phổ cập Tiểu học và xoá mù chữ năm học 1990-1991. Hoàn thành phổ cập giáo dục Tiểu học đúng trình độ năm 2001. Hoàn thành giáo dục THCS năm 2002. Số học sinh bỏ học không quá 1%.
Chất lượng giáo dục đại trà giữ vững, chất lượng giáo dục mũi nhọn luôn đứng trong tốp 10-20 quận huyện của thành phố Hà Nội. Số học sinh đỗ vào các trường Cao đẳng - Đại học năm sau cao hơn năm trước. Hiện nay, toàn huyện có trên 60 tiến sĩ, hàng trăm thạc sĩ…
Những tên đất Tiền Phong, Mê Linh, Tráng Việt, Thanh Lâm, Kim Hoa, Quang Minh là vùng “địa linh, nhân kiệt”.
Anh hùng liệt sỹ Lưu Quý An, Kim Đồng của Hà Nội. Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ xây dựng Trịnh Đình Dũng, Phó chủ nhiệm Văn Phòng Chính Phủ Kiều Đình Thụ và bao nhiêu người con ưu tú khác mãi mãi là niềm tự hào về truyền thống hiếu học của người Mê Linh anh hùng.

Trường THCS Liên Mạc A tổ chức Lễ kỷ niệm 31 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam và đón Bằng công nhận trường trung học đạt chuẩn Quốc gia

Sáng ngày 18/11/2013, Trường THCS Liên Mạc A (xã Liên Mạc) long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 31 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam và đón Bằng công nhận trường trung học đạt chuẩn Quốc gia.

  Dự buổi Lễ có đồng chí Hoàng Anh Tuấn – Huyện ủy viên, Phó Chủ tịch UBND huyện; lãnh đạo một số phòng, ban, ngành huyện, lãnh đạo xã Liên Mạc, Ban giám hiệu các trường trung học phổ thông, trung học cơ sở, tiểu học và mầm non trên địa bàn huyện, các đồng chí nguyên là cán bộ quản lý, giáo viên của trường qua các thời kỳ cùng toàn thể cán bộ, giáo viên, học sinh và đại diện cha mẹ học sinh của nhà trường.
Khung cảnh buổi Lễ
Được tách ra từ trường THCS Liên Mạc cách đây vừa tròn 6 năm, khắc phục những khó khăn, thiếu thốn ban đầu, những năm qua, Trường THCS Liên Mạc A là một trong những ngôi trường luôn thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua “Dạy tốt,  học tốt” của ngành giáo dục huyện. Hiện nay, 100% giáo viên của trường đạt chuẩn, trong đó 86% đạt trên chuẩn. Năm học 2012 – 2013, nhà trường có tỷ lệ học sinh khá, giỏi đạt 57%, tỷ lệ học sinh xếp loại hạnh kiểm khá, tốt đạt trên 97%; tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường THPT đạt 94,4%; nhà trường có 15 học sinh đạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi cấp huyện, 2 học sinh đạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi cấp thành phố. Các phong trào thi đua, các cuộc vận động, các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục, thể thao của ngành và cấp trên triển khai luôn được nhà trường quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm túc, kịp thời, sâu rộng, có sức hút và sự lan tỏa mạnh mẽ trong đội ngũ giáo viên, học sinh. Cơ sở vật chất của trường được đầu tư xây dựng kiên cố, kiến trúc đẹp, thiết kế hợp lý và hiện đại, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của các thầy cô giáo và các em học sinh.
Thừa ủy quyền Chủ tịch UBND thành phố, đ/c Hoàng Anh Tuấn – Huyện ủy viên, Phó Chủ tịch UBND huyện
trao Bằng công nhận trường chuẩn Quốc gia cho Trường THCS Liên Mạc A
 
Tại buổi Lễ, thừa ủy quyền Chủ tịch UBND thành phố, đồng chí Hoàng Anh Tuấn – Huyện ủy viên, Phó Chủ tịch UBND huyện đã trao Bằng công nhận trường chuẩn Quốc gia cho Trường THCS Liên Mạc A.
Đ/c Hoàng Anh Tuấn – Huyện ủy viên, Phó Chủ tịch UBND huyện phát biểu tại buổi Lễ
Phát biểu tại buổi Lễ, đồng chí Hoàng Anh Tuấn – Huyện ủy viên, Phó Chủ tịch UBND huyện đã biểu dương và đánh giá cao những nỗ lực, cố gắng của tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh Trường THCS Liên Mạc A. Để tiêp tục giữ vững danh hiệu trường chuẩn Quốc gia mức độ 1 và tiến tới đạt chuẩn Quốc gia mức độ 2, đồng chí Phó Chủ tịch UBND huyện đề nghị: Ban giám hiệu, Hội đồng sư phạm trường THCS Liên Mạc A tiếp tục xây dựng tập thể vững mạnh, đoàn kết, nhất trí cao; thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học để tạo sự chuyển biến tích cực về chất lượng giáo dục toàn diện, tạo bước đột phá hơn nữa về chất lượng học sinh giỏi; coi việc đầu tư nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên là khâu quan trọng hang đầu để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục; đưa nội dung giáo dục về Chương trình xây dựng nông thôn mới và giáo dục truyền thống quê hương Hai Bà Trưng anh hùng vào giảng dạy. Cùng với đó, các thầy cô giáo nhà trường cần không ngừng tự học hỏi, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ nhận thức chính trị, từng bước đáp ứng yêu cầu hòa nhập sâu với sự nghiệp giáo dục và đào tạo của Thủ đô Hà Nội; các em học sinh nhà trường phải luôn tự tin, chăm chỉ, sáng tạo, vượt khó học tập tốt để trở thành con ngoan, trò giỏi, đoàn viên tốt.
Ngay sau buổi Lễ, các đại biểu đã tham quan cơ sở vật chất của nhà trường.
Các đại biểu tham quan phòng âm nhạc của nhà trường 
Các đại biểu tham quan phòng học ngoại ngữ 

Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng thăm và chúc tết huyện Mê Linh



Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trịnh Đình Dũng cùng đoàn công tác của Bộ Xây dựng đã về thăm và chúc tết Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Mê Linh.


Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng tặng quà Tết Nguyên đán cho Đảng bộ và chính quyền, nhân dân huyện Mê Linh
Thay mặt Đảng bộ và chính quyền, nhân dân huyện Mê Linh, Bí thư huyện ủy Mê Linh Lưu Tiến Long đã báo cáo về tình hình kinh tế- xã hội của huyện Mê Linh trong năm qua. Là huyện ngoại thành, cửa ngõ của Thủ đô, huyện Mê Linh đã hoàn thiện quy hoạch nông thôn mới, đồng thời hoàn thành vượt mức kế hoạch cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Huyện đã triển khai nhiều dự án lớn như đẩy nhanh tiến độ hoàn thành đường quốc lộ 23B, khởi công đường trục chính 100 m nối với tỉnh Vĩnh Phúc. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, an ninh- quốc phòng ổn định, công tác xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến tích cực. Năm 2012, huyện tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm tốt công tác quy hoạch và xây dựng đô thị.
Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng đã ghi nhận và biểu dương Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Mê Linh đã vượt qua khó khăn, thách thức trong năm 2011 và có nhiều tăng trưởng mới về kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng được giữ vững và trật tự xã hội ổn định. Sự phát triển mạnh về kinh tế xã hội của Mê Linh đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển của Thủ đô, đồng thời giảm áp lực về dân số, nhà ở… cho Hà Nội.

Bộ trưởng Trịnh Đình Dũng cùng đoàn công tác Bộ Xây dựng chụp ảnh lưu niệm với lãnh đạo chủ chốt của đảng bộ huyện Mê Linh.
Bộ trưởng nhấn mạnh, Mê Linh là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, trên địa bàn huyện đang có tốc độ đô thị hóa nhanh. Mê Linh cũng là huyện đầu tiên của cả nước có quy hoạch thành một đô thị lớn. Bộ trưởng lưu ý Đảng bộ và chính quyền cần quan tâm, chú trọng công tác quản lý đầu tư xây dựng đô thị. Đến nay, toàn huyện đã có 2000 ha đất đô thị, do vậy huyện cần đầu tư các công trình trọng điểm, nâng cao khả năng kết nối các dự án, hạ tầng giao thông, đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới, xứng đáng là đô thị lõi của Thủ đô.
Nhân dịp này, thay mặt ngành Xây dựng, Bộ trưởng cũng gửi quà tặng và lời chúc Tết nguyên đán đầm ấm tới Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Mê Linh.



Đại tướng Phùng Quang Thanh- Ủy viên Bộ chính trị - Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng thăm và chúc tết Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Mê Linh


Chiều ngày 2/2/2013, Đại tướng Phùng Quang Thanh - Ủy viên Bộ chính trị - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã thăm và chúc tết Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Mê Linh. Cùng đi có Trung tướng Phí Quốc Tuấn – Tư lệnh Bộ Tư Lệnh Thủ Đô Hà Nội.

Đón tiếp đoàn về phía huyện Mê Linh có các đồng chí Lưu Tiến Long – Thành ủy viên – Bí thư Huyện ủy; Đỗ Minh Tuấn – Phó Bí thư thường trực Huyện ủy – Chủ tịch HĐND huyện; Nguyễn Xuân Trường – Phó Bí thư Huyện ủy - Chủ tịch UBND huyện và các đồng chí trong Ban thường vụ Huyện ủy.
Đại tướng Phùng Quang Thanh – Ủy viên Bộ chính trị - Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng
        tặng hoa chúc mừng
 Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Mê Linh
Tại buổi gặp mặt, sau khi nghe đồng chí Lưu Tiến Long – Thành ủy viên - Bí thư Huyện ủy báo cáo tóm tắt tình hình phát triển kinh tế - xã hội của huyện năm 2012, Đại tướng Phùng Quang Thanh đã ghi nhận những nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Mê Linh trong việc hoàn thành các chỉ tiêu, kế hoạch đề ra trên tất cả các mặt kinh tế - chính trị , văn hóa – xã hội, an ninh – quốc phòng. Đại tướng chúc Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện tiếp tục đoàn kết, cố gắng để hoàn thành vượt chỉ tiêu kế hoạch năm 2013.
Thay mặt Huyện ủy – HĐND – UBND huyện Đ/c Lưu Tiến Long – Thành ủy viên - Bí thư Huyện ủy đã tiếp thu những ý kiến chỉ đạo của Đại tướng Phùng Quang Thanh và mong muốn trong thời gian tới sẽ nhận được nhiều hơn nữa sự quan tâm của Đại tướng với quê hương Mê Linh.
Đại tướng Phùng Quang Thanh - Ủy viên Bộ Chính trị - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã trồng cây lưu niệm tại khuôn viên trụ sở Huyện ủy – HĐND – UBND huyện.
Đại tướng Phùng Quang Thanh trồng cây lưu niệm tại khuôn  viên  trụ sở Huyện ủy – HĐND - UBND huyện
Buổi chiều cùng ngày, Đại tướng Phùng Quang Thanh đã đến thăm và chúc tết BCH QS huyện, gặp mặt các đồng chí trưởng, phó các Ban liên lạc Cựu chiến binh huyện. Đại tướng chúc cán bộ chiến sĩ BCH Quân sự huyện đón tết vui vẻ, an toàn và tiết kiệm. Đồng thời Đại tướng cũng mong muốn trong năm 2013Ban chỉ huy Quân sự huyện cần chú trọng  làm tốt một số nhiệm vụ quan trọng như: công tác tuyển quân,duy trì kỷ luật quân đội, công tác hậu cần quân đội,…vv/
Đại tướng Phùng Quang Thanh chụp ảnh lưu niệm với các đồng chí lãnh đạo
Huyện ủy – HĐND – UBND huyện Mê Linh
 


LỊCH SỬ, VĂN HÓA MÊ LINH

Huyện Mê Linh hiện có 18 xã thị trấn, diện tích tự nhiên hơn 14 nghìn ha với hơn 19 vạn dân. Là một huyện cổ - một vùng đất “Địa linh nhân kiệt”, nhân dân trong huyện không chỉ giàu truyền thống đấu tranh cách mạng mà còn rất giàu truyền thống văn hoá
Huyện Mê Linh hiện có 18 xã thị trấn, diện tích tự nhiên hơn 14 nghìn ha với hơn 19 vạn dân. Là một huyện cổ - một vùng đất “Địa linh nhân kiệt”, nhân dân trong huyện không chỉ giàu truyền thống đấu tranh cách mạng mà còn rất giàu truyền thống văn hoá. Cùng với truyền thống văn hoá chung của cả nước, Mê Linh còn chịu ảnh hưởng của 3 nền văn hoá đặc biệt. Đó là truyền thống yêu nước, ý chí quật cường, đoàn kết trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của Hai Bà Trưng. Bên cạnh đó, Mê Linh còn chịu ảnh hưởng của nền văn hoá Kinh Bắc xưa, đó là truyền thống hiếu học, sáng tạo trong chiến đấu, lao động sản xuất và giàu tính nhân văn. Và cùng với truyền thống của văn hoá làng, Mê Linh còn chịu ảnh hưởng của nền văn hoá đô thị, văn minh công nghiệp, của hệ thống giáo dục và đào tạo của thủ đô Hà Nội.
Qua quá trình phát triển, ba nền văn hoá trên đã hoà quyện vào nhau tạo thành một truyền thống và bản sắc văn hoá đặc sắc của người Mê Linh. Truyền thống văn hoá ấy đã và đang là nền tảng tinh thần của nhân dân Mê Linh, vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong những năm gần đây cũng như trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá hiện nay.
Thực hiện Nghị quyết TƯ 5 (khoá VIII) về “xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, trong những năm qua, huyện Mê Linh luôn kết hợp chặt chẽ việc phát triển kinh tế với phát triển văn hoá. Tích cực đẩy mạnh phong trào:“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”; thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, mừng thọ, kỷ niệm ngày truyền thống. Xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá, đơn vị văn hoá. Đến nay, toàn huyện có trên 30 nghìn gia đình văn hoá, 65/92 làng, thôn, tổ dân phố văn hoá (trong đó có 27 làng văn hoá cấp tỉnh) và 18 đơn vị văn hoá.
Với phương châm vừa đầu tư, vừa xã hội hoá công tác văn hoá, huyện Mê Linh đã tạo được phong trào quần chúng sôi nổi tham gia các hoạt động văn hoá từ các làng xã đến các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, các trường học trong toàn huyện. Văn hoá ở huyện vừa phát huy truyền thống vừa mang tính hiện đại. Các giá trị văn hoá truyền thống được khơi dậy mạnh mẽ và biểu hiện rõ nhất trong các lễ hội truyền thống, trong các sinh hoạt văn hoá, văn nghệ dân gian, trong cuộc thi các môn thể thao dân tộc ở các làng với hàng nghìn người tham gia, tạo nên bầu không khí cộng đồng hết sức phấn khởi, đầm ấm, có tác dụng giáo dục nhớ về cội nguồn, động viên mọi người hăng say lao động, sản xuất công tác và học tập.
Công tác tổ chức, quản lý và chỉ đạo các lễ hội phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và thuần phong mỹ tục của huyện. Các sinh hoạt lễ hội bước đầu có nền nếp, tiêu biểu nhất là lễ hội Hai Bà Trưng. Việc sưu tầm, nghiên cứu giới thiệu các di sản văn hoá phi vật thể được quan tâm đúng mức. Các di sản văn hoá vật thể được bảo tồn, tôn tạo và phát huy. Toàn huyện có 179 di tích, đến nay đã có 27 di tích được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia, 42 di tích được xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh. Tiêu biểu như di tích lịch sử văn hoá Quốc gia đền Hai Bà Trưng, di tích lịch sử văn hoá Đồi 79 Mùa xuân. Thông qua các hoạt động văn hoá đã khơi dậy lòng tự hào của mỗi người dân với truyền thống cách mạng của quê hương, từ đó kết hợp giữa các hoạt động văn hoá truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc với xây dựng các giá trị văn hoá tiên tiến.
Bước vào thời kỳ CNH – HĐH, để góp phần xây dựng huyện Mê Linh trở thành vùng kinh tế trọng điểm, một đô thị lớn, hiện đại trong tương lai, nhiệm vụ, mục tiêu xây dựng đời sống văn hoá Mê Linh đang đặt ra những yêu cầu mới với nhiều thách thức. Đó là phải xây dựng con người Mê Linh, nếp sống Mê Linh vừa có phong cách công nghiệp và văn minh đô thị vừa thể hiện bản sắc đặc thù của vùng đất giàu truyền thống văn hoá.
Trong quá trình thực hiện CNH – HĐH, văn hoá là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần thay đổi nếp nghĩ, cách làm, kích thích sáng tạo, năng động; đồng thời văn hoá còn giúp mỗi con người, mỗi gia đình vươn tới một đời sống tinh thần phong phú, lành mạnh, kỷ cương phù hợp với nếp sống công nghiệp và đô thị.
Nhằm tiếp tục thực hiện Nghị quyết TƯ 5 (khoá VIII) về “Xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc”, xây dựng huyện Mê Linh trở thành một đô thị hiện đại và văn minh, từ nay đến 2020 và những năm tiếp theo, sự nghiệp văn hoá của huyện phát triển với những nhiệm vụ chính như sau:
Một là: Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ xây dựng con người mới có tư tưởng, đạo đức, lối sống văn hoá lành mạnh, có phong cách công nghiệp và văn minh đô thị.
Hai là: Đẩy mạnh xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, phong phú.
Ba là: Từng bước nâng cao chất lượng hệ thống thông tin đại chúng và hoạt động văn hoá văn nghệ.
Bốn là: Bảo tồn, phát huy các di sản văn hoá, tăng cường đầu tư xây dựng các thiết chế văn hoá đồng bộ, hiệu quả.
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trên, huyện Mê linh triển khai những giải pháp lớn là:
- Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao tinh thần trách nhiệm và năng lực làm việc, đạo đức, lối sống cho cán bộ và nhân dân trong toàn huyện.
- Tăng cường phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước trên lĩnh vực văn hoá, nâng cao nhận thức của nhân dân về những giá trị văn hoá cao đẹp, đặc biệt là các tiêu chí về văn hoá công nghiệp và nếp sống đô thị, ngăn chặn sự xâm nhập của văn hoá độc hại, phản động. Đồng thời thực sự coi văn hoá là nền tảng tinh thần của nhân dân trong huyện, là động lực và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
- Tiếp tục triển khai toàn diện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá, đơn vị văn hoá, phong trào “Người tốt việc tốt” làm cho mỗi gia đình, mỗi làng xã, mỗi đơn vị đều trở thành một cơ sở văn hoá, tôn vinh nếp sống của người dân Mê Linh, của người dân thủ đô Hà Nội thanh lịch.
- Mặt khác tiếp tục đầu tư để nâng cao chất lượng hoạt động thông tin cổ động. Tổ chức điều tra, quy hoạch, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá trên địa bàn huyện. Khơi dậy tinh thần đoàn kết, tương trợ cộng đồng, hướng mọi người dân đến với Chân - Thiện - Mỹ. Thực hiện xã hội hoá các hoạt động văn hoá, làm cho người dân không chỉ là người hưởng thụ mà còn là người sáng tạo văn hoá, là chủ nhân thực sự của đời sống văn hoá của cộng đồng.

Đình Cả ( xã Văn Khê)

Đình Cả thờ Hoàng Tuyển, hiệu là Quốc Hoàng đại vương, người đã có công giúp Hùng Duệ Vương đánh tan quân Thục.

Đình Cả thuộc thôn Khê Ngoại, xã Văn Khê, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.
          Theo truyền thuyết, đình Cả thờ Hoàng Tuyển, hiệu là Quốc Hoàng đại vương, người đã có công giúp Hùng Duệ Vương đánh tan quân Thục.
          Đình được xây dựng trên một khu đất rộng thuộc địa phận xóm Chùa, sát đường liên xã. Tục truyền đình Cả được làm trên lưng con Phượng Hoàng, phía trước có hồ nước trong. Theo cuốn Niên biểu Việt Nam và căn cứ vào tấm bia có niên hiệu Cảnh Hưng (1740 -1786) lưu trong đình kết hợp với kiểu dáng kiến trúc hiện còn cùng với nghệ thuật điêu khắc dân gian của ngôi đình cho chúng ta thấy được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVIII. Kiến trúc ngôi đình theo kiểu chữ “công” và quay về hướng tây chếch nam.
Toà Đại đình gồm 5 gian 2 mái, 6 hàng chân cách thức vì tạo kiểu giá chiêng chồng rường hạ bẩy. Riêng hai vì kèo, hai đốc mái kết cấu theo kiểu chồng rường giá chiêng. Từ cột cái đến các cột quân là những khối gỗ to gác lên nhau đỡ đòn tay tạo thành bức cốn nách chạm khắc các hình vân xoắn, đao mác trau chuốt, điêu luyện. Từ cột quân đến cột hiên vươn ra hai mái là hai kẻ to, nặng được đục chạm mặt hình rồng vây mác tua tủa, hai bên thân tròn, đuôi thẳng như đuôi cá, xung quanh chạm khắc hình vân xoắn, đao mác, sóng nước, hoa lá,… xung quanh Đại đình có khung cửa làm theo kiểu thượng song hạ xây tường. Riêng ba cửa chính giữa được làm theo kiểu thượng song hạ bản, khiến cho đình thông thoáng, mát mẻ.
Ống muống được xây nối liền với Đại đình bởi hệ thống xà và dui, thượng lương với hệ thống cột cái gian chính giữa chạy dọc về phía sau gắn kết với toà Hậu cung chạy ngang tạo thành chữ “công”. Phần ống muống có diện tích mặt bằng khá rộng gồm 2 gian, 4 hàng chân cao bằng Đại đình. Mái được làm hai mái, toàn bộ phần ống muống được làm trần ván. Phần kết cấu được đặt trên 4 cột cái, vì kèo trên làm theo kiểu thượng rường hạ bẩy.
Hậu cung gồm 3 gian được xây theo kiểu tường hồi bít đốc nền cao hơn Đại đình có 4 hàng chân cột cái. Mái được làm theo kiểu chồng diêm, hai tầng bốn mái. Phần cổ diêm giữa hai mái được bưng kín bằng những ván mỏng, các bộ vì làm theo kiểu chồng rường giá chiêng hạ kẻ. Gian giữa Hậu cung làm sàn cách nền 2,10m để đặt long ngai, nơi toạ lạc của Thành hoàng làng. Phần này được ngăn cách bởi bộ cửa bức bàn vẽ trang trí tứ linh và sơn son thếp vàng lộng lẫy, xung quanh được bưng ván, làm trần ván gỗ mỏng.
Cùng với quy mô kiến trúc đồ sộ, nguy nga, đình Cả còn lưu giữ được nhiều bức chạm trổ đẹp trên các bức cốn nách, kẻ, bẩy, dép hoành, đầu dư… điển hình như: Bốn bức cốn nách gian giữa toà Đại đình được trang trí chủ yếu là hình rồng với thân nhỏ, gấp khúc, vây cá chép, đao mác mập đầy, đuôi vung ra. Đầu rồng không mấy giữ tợn, bờm tóc ngắn, miệng há rộng, mũi to, mắt lồi, râu vểnh. Riêng hai bức cốn phía trong bên cạnh hình rồng càm chữ “thọ” là các hoạ tiết trang trí hình trám lồng với các hoạ tiết vân xoắn, đao mác đã tạo nên một bức chạm khá sinh động, mạnh mẽ, song không kém phần uyển chuyển.
Hai bức chạm cốn trước cửa Hậu cung trang trí là hình rồng phun nước, dưới cột nước có hình cá chép. Rồng với đuôi xoắn, đao mác mập đầy. Bên cạnh hình rồng là long mã đầu và thân được thể hiện hình rồng, 4 chân co lên trong thế phi nước đại, thần quy lạc thú bơi trong hồ nước, phượng đứng trong thế đậu cùng với các hoạ tiết sóng nước, hoa lá sen, vân xoắn, đao mác. Bức chạm bên trái được thể hiện là 4 hình rồng thân nhỏ, vây mác mập đầy. Riêng hình rồng lớn thể hiện rõ đuôi xoắn tạo thành như bông hoa. Bên cạnh các hình rồng là hình phượng đậu.
Dưới câu đầu là một hệ thống đầu dư được trang trí theo kiểu chạm lộng. Tám đầu dư thể hiện hình rồng với tư thế nhìn thẳng, đao mác lối râu trê.
Đình Cả còn có một số di vật cổ độc đáo, đặc biệt là các di vật bằng đồng và di vật là các đồ thờ bằng gỗ được trạm trổ khá tinh xảo, tỉ mỉ tạo nên sự hài hoà tinh tế mang đầy tính sáng tạo, khả năng tư duy và đôi bàn tay khéo léo của các nghệ nhân thời trước.
Đình Cả đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1997.



Đền Tây Xá ( xã Hoàng Kim)


Đền Tây Xá nằm trong hệ thống di tích thờ các tướng lĩnh tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thời kỳ đầu Công nguyên trên vùng đất Mê Linh. Với cảnh quan đẹp ven sông, đền là một địa điểm thuận lợi giúp cho việc tham quan, nghiên cứu, giáo dục truyền thống.

Đền Tây Xá thuộc thôn Tây Xá, xã Hoàng Kim, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.
Đền được xây dựng trên một khu đất cao ráo, thoáng mát, xung quanh là khu dân cư thôn Tây Xá đông đúc trù phú, kế tiếp từ bao thế hệ đã cùng nhau xây dựng vào khoảng thể kỷ XIX quay theo hướng tây nam, kiến trúc kiểu chữ “đinh” gồm 2 toà: Tiền tế và Hậu cung.
Toà Tiền tế đền Tây Xá gồm 5 gian 2 chái. Kiến trúc của toà Tiền tế làm theo kiểu chồng rường hạ bẩy, cột và các vì kèo bào trơn, gia cố cẩn thận theo mực thước chính xác, phía trước có 3 ô cửa chính, ngoài hiên có 2 cột trụ xây gạch hình vuông, xung quanh được xây tường gạch chắn, mái lợp ngói âm..
Toà Hậu cung của đền gồm 3 gian dài kiến trúc cũng làm theo kiểu chồng rường hạ bẩy.
Theo thần tích, đền Tây Xá thờ 3 vị là: Nàng Ả, Nàng Lã và Nàng Mỵ (Ả  Nương, Lã Nương, Mỵ Nương) là những tướng lĩnh đã giúp Hai Bà Trưng đánh giặc giữ nước trong những năm đầu Công nguyên. Tuy quy mô kiến trúc không đồ sộ, song đền Tây Xá còn lưu giữ được nhiều bức chạm trổ trên các cốn mê, cốn nách, xà rồng với các đề tài: long, ly, quy, phượng, hoa lá, mây cụm, sông nước phản ánh tư duy sáng tạo, đôi bàn tay tài hoa của các nghệ nhân thời Nguyễn cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX.
Đền Tây Xá nằm trong hệ thống di tích thờ các tướng lĩnh tham gia cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thời kỳ đầu Công nguyên trên vùng đất Mê Linh. Với cảnh quan đẹp ven sông, đền là một địa điểm thuận lợi giúp cho việc tham quan, nghiên cứu, giáo dục truyền thống.
Đền Tây Xá đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật năm 1993.


Đền Chi Đông


 Đền Chi Đông được làm với kiểu dáng kiến trúc khoẻ đẹp, chạm trổ tinh tế có giá trị quý về nghệ thuật.

Đền Chi Đông thuộc thị trấn Chi Đông, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.
Đền Chi Đông được xây dựng ở địa thế đẹp, thoáng mát. Bao bọc quanh khu đền là xóm làng trù phú, phía trước là khoảng sân rộng tiếp nối với chợ cổ Chi Đông.
Ảnh: minh họa
Đền được xây dựng theo kiến trúc hình chữ “đinh” gồm 2 toà: Tiền tế 3 gian, Hậu cung 2 gian. Mặt trước toà Tiền tế gồm 4 cột trụ vuông và 3 cánh phong được bố trí liên kết thành một tác môn rất đẹp. Cửa chính giữa vào đền xây vòm cuốn, bên trong là cánh phong kiểu tháp 2 tầng có trang trí hình rồng chầu đỉnh, lư, lọ, hoa… hai bên cửa chính là 2 cột trụ có đắp nổi hình hổ phù long, ly, quy, phượng; đỉnh cột tạo thành hình quả dành, thân cột có đôi câu đối gắn bằng sành, sứ.
Tiếp đến là 2 cửa sổ ứng với 2 gian bên của đền, trên cửa là hai cánh phong và ngoài cùng là hai cột trụ thấp nhỏ hơn. Thân các cột này cũng gắn đôi câu đối.
Tiền tế có kiến trúc chồng diêm 2 tầng 8 mái, kết cấu vì kèo kiểu chồng bồn.
Hậu cung có kiến trúc, chồng rường giá chiêng. Nền đền lát gạch bát chín, chân cột kê đá và mái lợp ngói mũi cổ.
Đền Chi Đông thờ Trương Hống, Trương Hát là hai người anh hùng đã có công giúp Triệu Quang Phục đánh đuổi giặc Lương xâm lược.
Đền Chi Đông được làm với kiểu dáng kiến trúc khoẻ đẹp, chạm trổ tinh tế có giá trị quý về nghệ thuật.
Đền Chi Đông được Bộ Văn hóa và Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1993.




Đình Yên Lão Thị được xây dựng trên địa thế đẹp. Tuy hiện nay, kiến trúc cổ không còn, song với những hiện vật và tư liệu lưu giữ được, đình Yên Lão Thị đã cung cấp cho chúng ta những thông tin quý, giúp cho công tác nghiên cứu về mỹ thuật cổ dân gian, về truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

 Đình Yên Lão Thị thuộc thôn Yên Lão Thị, xã Tiến Thịnh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.
            Đình Yên Lão Thị được xây dựng trên một khu đất đẹp, thoáng mát, giáp đê sông Hồng. Phía trước có sân lát gạch, phía sau có ao. Cổng đình gồm sáu trụ lớn nhỏ gắn kết với nhau bằng các bức tường xây tạo thành 3 lối vào rộng. Lối đi chính được tạo nên bởi hai trụ lớn nhất, thân trụ đắp các hình tứ linh và hổ phù. Hai bên cổng chính là hai cổng phụ xây vòm cuốn, mái hai tầng, hai bên bố trí hai trụ nhỏ đỉnh tạc hình nghê. Trên tất cả các bức tường xây ở cổng đều trang trí hình rồng và hoa lá.
Ảnh: Minh họa
            Kiến trúc đình hình chữ “đinh” gồm Đại đình 9 gian, Hậu cung 3 gian. Kết cấu vì kèo của đình làm kiểu quá giang gối tường, mái cầu phong ly tô lợp ngói móc.
            Về lịch sử xây dựng, theo những người cao tuổi của làng kể lại thì đình ngày xưa có quy mô kiến trúc rất đồ sộ, từng nổi tiếng trong vùng. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đình chịu ảnh hưởng trực tiếp của bom đạn nên không còn nguyên vẹn. Đến năm 1971, địa phương đã dỡ đình, lấy vật liệu dựng hội trường hợp tác xã. Năm 1998, nhân dân tu sửa lại đình với kiểu dáng kiến trúc như ngày hôm nay.
            Bài trí thờ tự của đình được tập trung ở khu vực Hậu cung. Phía trước Hậu cung đặt một án gian, hai đầu treo hai câu đối và hai bức hoành phi.
            Hiện nay, đình Yên Lão Thị còn lưu giữ được bộ đồ gỗ thờ gồm 4 cỗ kiệu bát cống, 4 ngai thờ sơn son thếp vàng rực rỡ, giữa lòng ngai có bài vị thờ tự của thần bằng chữ Hán; 3 bức hoành phi: một bức nền gỗ sơn then, chữ Hán khảm trai; một bức nền khắc triện gấm thếp vàng, chữ Hán sơn then; một bức nền gỗ sơn son, chữ Hán thếp vàng; hai câu đối sơn son thếp vàng, hai bộ chấp kích, một số đài rượu, đèn, nến.
            - Đồ đồng: một bộ tam sự gồm một đỉnh, hai cây nến.
            - Đồ gốm sứ: bốn nậm rượu và hai bát gốm thời Nguyễn, hai đĩa, hai bát gốm thời Thanh, hai choé đựng nước cỡ lớn.
            Ngoài ra, đình còn giữ một quyển văn tế, một quyển Ngọc phả và bảy bản sắc phong do các triều đại phong kiến ban cho các vị thần vào những năm 1849, 1857, 1887, 1740 (4 bản).
            Đình Yên Lão Thị thờ năm vị Thành hoàng: ba vị là Phạm Trung, Phạm Túc, Phạm Hoà đều là tướng thời An Dương Vương có công đánh giặc Triệu Đà bảo vệ đất nước; Trần Lan và Trần Ngọc là hai lương y tài năng, đức độ của thế kỷ thứ VI.
            Đình Yên Lão Thị được xây dựng trên địa thế đẹp. Tuy hiện nay, kiến trúc cổ không còn, song với những hiện vật và tư liệu lưu giữ được, đình Yên Lão Thị đã cung cấp cho chúng ta những thông tin quý, giúp cho công tác nghiên cứu về mỹ thuật cổ dân gian, về truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
            Đình Yên Lão Thị được Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 2001.



Đền Thái Lai


         Đền Thái Lai được xây dựng vào đầu công nguyên. Đến thế kỷ XIX, đền được làm lại như ngày nay. Đền làm theo hướng Tây Nam giáp sông Cà Lồ. Kiến trúc của đền là chữ “Đinh” gồm hai tòa: tiền tế 3 gian và hậu cung hai gian

Đền Thái Lai thuộc thôn Thái Lai, xã Tiến Thắng, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.
Đến Thái Lai thờ Trần Công là huyện tể huyện Chu Diên, đồng thời là thân phụ Trần Nương - người đã có công giúp Hai Bà Trưng đánh đuổi giặc Hán xâm lược bảo vệ đất nước. Hiện nay, nằm ở phía sau cạnh đền và bên phải từ ngoài vào đền là mộ Trần Công.
Đền Thái Lai được xây dựng vào đầu công nguyên. Đến thế kỷ XIX, đền được làm lại như ngày nay. Đền làm theo hướng Tây Nam giáp sông Cà Lồ. Kiến trúc của đền là chữ “Đinh” gồm hai tòa: tiền tế 3 gian và hậu cung hai gian. Cửa đền được trang trí tác môn hình rồng chầu mặt nguyệt, mái lợp ngói mũi. Kết cấu của hai tòa tiền tế và Hậu cung là kiểu tứ trụ lòng thuyền và chồng bồn con lợn.
Ảnh: minh họa
          Cũng như bao kiến trúc khác thời Nguyễn, trang trí ở đền Thái Lai được kết hợp nhuần nhuyễn giữa trang trí trên gỗ và đắp vẽ ngõa. Đặc biệt là trang trí ở tác môn, ván gió và cốn mê.
          Tác Môn ở đền Thái Lai gắn liền với hệ thống cửa. Tác môn dài 8,80m, cao 5,05m chia làm ba ô tương ứng với ba gian của tiền tế và đưa làm ba tầng trang trí. Tầng dưới cùng lớn nhất bao gồm hết phần cửa. Hai bên đầu đốc đắp phù điêu nổi hình hai võ tướng đứng, nét mặt nghiêm trang, râu đen, mắt xếch long lanh, đầu đội mũ quả găng, mình mặc áo cẩm bào trang trí các đường diềm, hổ phù, chân đi hài cong, tay phải cầm cây thương ép sát vào mình. Tầng thứ hai có kích thước nhỏ hơn, hai ô hai bên trang trí đơn giản bằng các đường gờ soi đắp nổi và trổ thủng các hình trấn song. Ở ô giữa có các đường diềm gờ được tạo thành 6 hình bầu dục, trong đắp nổi hình hoa lá, bát bửu. Ở ô giữa này đắp nổi 4 chữ Hán: “vạn cổ lưu phương”…
          Tầng trên cùng, ô giữa cao hơn đó là một cuốn thư đắp đẹp, cân đối, phần cuối cuốn thư đắp nổi ba chữ “Tối linh từ”. Trên cuốn thư đắp hình mặt nguyệt rất mảnh. Hai ô hai bên đắp thủng hai rông cuốn chầu vào. Đây là hình rồng cỡ lớn, đuôi xoán, mắt xếch, miệng hơi há ra, dữ tợn.
          Qua tác môn là vào tiền tế của đền, nối với tiền tế và hậu cung. Chỗ tiếp giáp này được gắn bằng hai bức cốn gió, ở hai bên, trên tạc long, ly, quy, phượng. Rồng ở đây được chạm lớn, chiếm gần hết bức chạm. Rồng có bờm tóc dài dữ tợn, mắt nổi lồi đen trắng, chân rồng choãi ra, bốn móng bám sắc chặt vào cánh mác trong tư thế nhìn xuống, đầu ngẩng cao rít mạnh một dòng nước hút lên. Trong dòng nước chạm một con cá chép cong mình uốn quanh cột nước. Cạnh đó là rùa chân giơ lên, đầu ngước theo dòng nước. Kế theo là hình con ly, bờm tóc rậm rạp, đầu ngoảnh lại theo hướng đầu rồng, bốn chân choãi thẳng như đang phi nước đại phủ kín bức chạm này là các hình vân mây, sóng nước được tỉa gọt tỷ mỉ, tinh tế.
Ngăn cách giữa tiền tế và hậu cung là một tường xây gạch có 3 cửa. Phần trên các cửa này có một cốn mê hình tam giác cân. Toàn bộ cốn mê này được đắp nổi và tô màu các hình rồng, phượng, vân mây. Trên cùng của bức cốn giáp mái đắp một hình hổ phù rất lớn, bờm tóc dài rậm rạp, mũi chó, mắt lồi đen trắng, miệng càm chữ “thọ”. Dưới hổ phù đắp đôi rồng chầu mặt nguyệt. Hai bên rồng chầu đắp hình phượng, chỗ cửa ra vào là hình ly đang trong tư thế đang bay, cánh xòe rộng, đầu phượng ngẩng, mắt lá dăm, mỏ vàng khoăm cắp dải lụa dài buộc bút sách. Phía dưới hình phượng, chỗ cửa ra vào là hình ly đang trong tư thế phi nhanh, đầu tóc dữ dằn, lưng cõng chữ “thọ” phủ kín bức cốn này là các hình vân mây, lá được tạo các hình vân mây, lá được tạo tác hết sức tỷ mỉ, mềm mại.
Ngoài ra, đền Thái Lai còn lưu giữ một số di vật, cổ vật độc đáo đặc biệt di vật là các đồ thờ bằng gỗ.
Đền Thái Lai đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1996.


Chùa Chi Đông


  Giá trị kiến trúc và nghệ thuật tạc tượng cùng với các đề tài trang trí mỹ thuật chạm khắc gỗ dân gian đã làm nên giá trị văn hoá tiêu biểu của chùa Chi Đông.

Chùa Chi Đông còn có tên là Phúc Long tự, thuộc thị trấn Chi Đông, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội.
Chùa có giá trị tiêu biểu về kiến trúc cũng như nghệ thuật điêu khắc gỗ, tạc tượng và còn lưu giữ được nhiều loại di vật, cổ vật quý từ thời Lê, Nguyễn.
Chùa được làm từ thời Hậu Lê, niên hiệu Chính Hoà thứ 14 (1693), gồm Tam quan 2 tầng 8 mái, chùa chính, nhà Tổ và hành lang tả, hữu. Hiện nay, chùa Chi Đông còn chùa chính, nhà Tổ khá bề thế, đồ sộ. Chùa chính gồm toà Tiền đường 9 gian nối với Thượng điện 5 gian theo kiểu chữ “đinh”. Toàn bộ mái chùa được làm theo kiểu chồng diêm ba tầng tám mái, riêng hai mái gian đầu hồi được làm nhô ra và cao hơn mái Tiền đường một chút để tạo nên lầu chuông và gác trống. Nhà Tổ ở phía bên trái chùa gồm 7 gian tạo thành hình “chuôi vồ”, kiến trúc theo kiểu “chồng bồn, kẻ truyền”, cột xà chắc khoẻ. Nhìn chung, các cấu kiện kiến trúc bằng gỗ ở chùa đều là các loại gỗ tốt, được gia công với kĩ thuật mộng sàm chuẩn mực tương đối bền vững.
Chùa Chi Đông có nhiều bức chạm khắc với hình thức và nội dung phong phú. Tất cả các kẻ phía trước chùa và các dép hoành kê đệm đòn tay đều trang trí các hình hoa lá, vân xoắn, chữ triện hay phượng, ly, long, mã. Riêng các bức cốn, đã được các nghệ nhân dân gian tài hoa tạo thành các tác phẩm nghệ thuật với trình độ điêu luyện, hết sức tinh xảo điển hình như cốn nách ở nhà Tiền đường, các bức cốn ở hai bên tả, hữu của Thượng điện chạm các đề tài “long, ly, quy, phượng”, mai, điểu, tùng, lộc,… rất sinh động. Đó là những bức cốn đẹp, đạt trình độ thẩm mỹ cao của nghệ thuật điêu khắc gỗ dân gian.
Cùng với kiến trúc đồ sộ cùng nghệ thuật điêu khắc tuyệt mỹ, chùa Chi Đông còn có một hệ thống tượng đẹp, gồm 13 pho, được làm bằng gỗ và đất luyện. Tiền đường có 4 pho, theo thứ tự từ trái sang phải bằng gỗ là: tượng Đức Ông, cặp tượng Hộ Pháp (khuyến thiện, trừ ác), tượng Thánh Tăng. Ở Thượng điện có 6 pho tượng được bày theo từng cấp, gồm Di Đà Tam Tôn, Quan Âm Nam Hải, Ngọc Hoàng và Thích Ca Cửu Long. Mỗi pho tượng là một tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo với đường nét trau chuốt kỹ lưỡng đến từng chi tiết, từng hoa văn trang trí kết hợp với kỹ thuật sơn thếp lành nghề.
Giá trị kiến trúc và nghệ thuật tạc tượng cùng với các đề tài trang trí mỹ thuật chạm khắc gỗ dân gian đã làm nên giá trị văn hoá tiêu biểu của chùa Chi Đông.
Chùa Chi Đông được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1993.
Theo nguoimelinh

CÁC BÀI VIẾT LIÊN QUAN



Hương Vị Tết Việt Nam



Đấtt và người Mê Linh



Clip về Mê Linh



Phim phóng sự huyện Mê Linh - Hà Nội






Các chuyên mục bài viết hay

Sơn Jymec                         - Bí quyết thành công trong sự nghiệp  
Sơn Kova                           - Bí quyết thành công trong tình yêu                    
- Sơn Dulux                           - Bí quyết có gia đình hạnh phúc
Sơn Jotun                           - Bí quyết làm đẹp
Sơn Cpon                           - Cẩm nang sức khỏe
Sơn Sunpec                       - Hành trang lập nghiệp
Sơn Dcolex                        - Blog yêu thương
- Sơn Jonstone                    - Mẹo hay cuộc sống
Sơn Valpasee                   - Dowload phần mềm miễn phí


















































































No comments:

Post a Comment